Một cửa hàng bán cá làm cái biển đề mấy chữ to tướng :
“Ở ĐÂY CÓ BÁN CÁ TƯƠI”
Biển vừa treo lên, có người qua đường xem, cười bảo :
– Nhà này xưa quen bán cá ươn hay sao mà bây giờ phải đề biển là cá “tươi”?
Nhà hàng nghe nói, bỏ ngay chữ “tươi” đi.
Hôm sau, có người khách đến mua cá, cũng nhìn lên biển, cười bảo :
– Người ta chẳng nhẽ ra hàng hoa mua cá hay sao, mà phải đề là “ở đây”?
Nhà hàng nghe nói, bỏ ngay hai chữ “ở đây” đi.
Cách vài hôm, lại có một người khách đến mua cá, cũng nhìn lên biển, cười bảo :
– Ở đây chẳng bán cá thì bày cá ra để khoe hay sao mà phải đề là “có bán”?
Nhà hàng nghe nói lại bỏ ngay hai chữ “có bán” đi. Thành ra biển chỉ còn có mỗi một chữ “cá”. Anh ta nghĩ trong bụng chắc từ bây giờ không còn ai bắt bẻ gì nữa.
Vài hôm sau, người láng giềng sang chơi, nhìn cái biển, nói :
– Chưa đi đến đầu phố đã ngửi mùi tanh, đến gần nhà thấy đầy những cá, ai chẳng biết là bán cá, còn đề biển làm gì nữa?
Thế là nhà hàng cất nốt cái biển!
(Mượn câu chuyện nhà hàng bán cá nghe ai “góp ý” về cái tên biển cũng làm theo, truyện tạo nên tiếng cười vui vẻ, có ý nghĩa phê phán nhẹ nhàng những người thiếu chủ kiến khi làm việc, không suy xét kĩ khi nghe những ý kiến khác).
Có một con ếch sống lâu ngày trong một giếng nọ. Xung quanh nó chỉ có vài con nhái, cua, ốc bé nhỏ. Hằng ngày nó cất tiếng kêu ồm ộp làm vang động cả giếng, khiến các con vật kia rất hoảng sợ. Ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng chiếc vung và nó thì oai như một vị chúa tể.
Một năm nọ, trời mưa to làm nước trong giếng dềnh lên, tràn bờ, đưa ếch ta ra ngoài.
Quen thói cũ, ếch nghênh ngang đi lại khắp nơi và cất tiếng kêu ồm ộp. Nó nhâng nháo đưa cặp mắt nhìn lên bầu trời, chả thèm để ý đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹo.
(Từ câu chuyện về cách nhìn thế giới bên ngoài chỉ qua miệng giếng nhỏ hẹp của chú ếch, truyện Ếch Ngồi Đáy Giếng ngụ ý phê phán những kẻ hiểu biết cạn hẹp mà lại huênh hoang, khuyên nhủ người ta phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình, không được chủ quan, kiêu ngạo.)
Truyện cổ tích là những truyện dân gian có nội dung kể lại những câu chuyện tưởng tượng về một số nhân vật như dũng sĩ, nhân vật bất hạnh, nhân vật chàng ngốc … Có ba loại truyện cổ tích chính : truyện cổ tích thần kỳ, truyện cổ tích về loài vật và truyện cổ tích sinh hoạt.
Vào thời giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam, chúng coi dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược, thiên hạ căm giận chúng đến xương tủy.
Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng, nhưng trong buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần nghĩa quân bị thua. Thấy vậy, đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để họ giết giặc.
Hồi ấy, ở Thanh Hóa có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Thận thả lưới ở một bến vắng như thường lệ. Khi kéo lưới lên, chàng thấy nằng nặng, trong bụng mừng thầm, chắc là có cá to. Nhưng khi thò tay vào bắt cá, Thận chỉ thấy có một thanh sắt; chàng vứt luôn xuống nước, rồi lại thả lưới ở một chỗ khác.
Lần thứ hai cất lưới lên cũng thấy nặng tay; Thận không ngờ thanh sắt vừa rồi lại chui vào lưới mình. Chàng lại nhặt lên và ném xuống sông. Lần thứ ba, lại vẫn thanh sắt ấy mắc vào lưới. Lấy làm quái lạ, Thận đưa lại mồi lửa nhìn xem. Bỗng chàng reo lên:
– Ha ha! Một lưỡi gươm!
Về sau Thận gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Chàng hăng hái gan dạ không nề nguy hiểm. Một hôm chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong túp lều tối om, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng rực lên ở xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi cầm lấy xem và thấy có hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm. Song tất cả mọi người vẫn không biết đó là báu vật.
Một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy tháo thân mỗi người một ngả. Lúc đi qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy một ánh sáng lạ trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi rút lấy chuôi giắt vào lưng.
Ba ngày sau, Lê Lợi gặp lại tất cả các bạn trong đó có Lê Thận. Lê Lợi mới đem chuyện bắt được chuôi gươm kể lại cho mọi người nghe. Khi đem tra gươm vào chuôi thì vừa như in.
Lê Thận nâng gươm lên ngang đầu nói với Lê Lợi:
– Ðây là Trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc!
Từ đó nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng tiến. Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung hoành khắp các trận địa, làm cho quân Minh bạt vía. Uy thanh của nghĩa quân vang khắp nơi. Họ không phải trốn tránh như trước mà xông xáo đi tìm giặc. Họ không phải ăn uống khổ cực như trước nữa, đã có những kho lương của giặc mới cướp được tiếp tế cho họ. Gươm thần đã mở đường cho họ đánh tràn ra mãi, cho đến lúc không còn bóng một tên giặc trên đất nước.
Một năm sau khi đuổi giặc Minh, một hôm Lê Lợi – bấy giờ đã làm vua – cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long Quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền rồng tiến ra giữa hồ, tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước. Theo lệnh vua, thuyền đi chậm lại. Ðứng ở mạn thuyền, vua thấy lưỡi gươm thần đeo bên người tự nhiên động đậy. Con rùa vàng không sợ người, nhô đầu lên cao nữa và tiến về phía thuyền vua. Nó đứng nổi trên mặt nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân!”.
Vua rút gươm quẳng về phía rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước. Gươm và rùa đã chìm đáy nước, người ta vẫn còn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh.
Từ đó hồ Tả Vọng bắt đầu mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
Tộc phả là quyển sổ biên tên từ ông thủy tổ trở xuống lần lượt theo thế tứ tất cả những ngành trong họ cho đến đời dưới chót.
Những họ đa đinh hàng ngàn người, về mỗi đời thường chỉ chép vắn tắt tên người trưởng phân chi, với những người em trai, nếu có, cùng một dòng chữ, với con số thứ tự chỉ định thế hệ thứ mấy kể từ thủy tổ. Đến thế hệ nối tiếp, nếu người trưởng phân chi không có con trai thì lẽ dĩ nhiên, chép tên người thừa kế với cước chú nói rõ là con ai được lập tự. Nếu người trưởng phân chi bỏ đi lập nghiệp phương xa rồi biệt tích thì sẽ cước chú “thệ” nghĩa là đi không trở về; và con trai hay con lập tự của người em sẽ được ghi tên vào thế hệ kế tiếp.
Nếu người trưởng phân chi di cư xa nhưng không mất liên lạc thì phả vẫn chép tên với cước chú lập nghiệp ở đâu; và cũng nhờ vậy lâu đời về sau vẫn có thể nhận họ nếu có gián đoạn trong việc biên chép.
Khi một trưởng phân chi không có con trai và cũng không có ai để lập tự, thì sẽ cước chú “vô tự” nơi dưới tên, nghĩa là không có người nối dõi, và từ đây kể như phân chi này tàn lụi.
Bên cạnh tên trong phả thường chép sơ lược ngày sinh, ngày chết, nghề nghiệp và mộ phần ở đâu. Có họ giữ được tộc phả đầy đủ trên dưới hai mươi hay ba mươi đời, kể có ngàn năm. Trái lại, phần lớn các họ không giữ được toàn vẹn tộc phả mà chỉ chép được từ nửa chừng. Khi tộc phả đã thất lạc thì sổ ghi chép được mấy đời sau cùng (theo khẩu truyền) gọi là phú ý, không hẳn là tộc phả.
Tộc phả thường được chép ra nhiều bản, họ trù phú có khi thuê khắc bản in bằng gỗ để in ra phân phát cho các chi, các phân chi, hoặc các nhà.
Việc chép phả không phải là khó khăn tốn kém, vậy mà nhiều họ vẫn không có tộc phả. Những họ phiêu bạt ít đinh và nghèo túng chẳng dễ gì nghĩ đến việc chép tộc phả.
Gia Phả
Gia phả là quyển sổ ghi chép các thế hệ của từng nhà, nói vậy không phải nhà nào cũng đều có gia phả. Nhà năm bảy anh em trai thì thường thường chỉ người anh trưởng lo việc chép kế tiếp vào gia phả của cha để lại. Những người em có học hay có tiền của thì tự làm lấy hay nhờ người sao chép gia phả kia để giữ riêng.
Có nhiều nhà mấy đời nghèo túng không lúc nào đủ cơm ăn, áo mặc, không được học, thì gìn giữ gia phả, nếu có từ xưa để lại, đã là việc khó, còn hơi sức nào nghĩ được việc chép gia phả.
Trong gia phả mỗi vị tổ tiên được ghi chép chức tước (nếu có) trên tên húy, rồi tên hiệu, tên thụy. Con trưởng hay con thứ mấy của vị nào. Sinh ngày giờ tháng năm nào, mất ngày giờ tháng năm nào. Mộ táng ở đâu. Chép cả tính tình và cách xử thế của người đã khuất, đôi khi chép cả những thói ưu thích hoặc ruồng ghét. Nếu có chân khoa trường thì thường chép rõ là thụ giáo ở trường ông thầy nào, đỗ khoa nào trường thi nào. Vào bậc đại khoa thì còn chép được chấm đậu thứ mấy trong hàng nhất giáp hay nhị, tam giáp, với số tân khoa từng giáp. Rõ ràng lắm, như có nhà chép cả việc tiền nhân đi thi đáng lẽ đỗ cao mà vì một lầm lỗi nhỏ bị đánh xuống rốt bảng.
Nhiều thế gia lệnh tộc chép phả có khi chỉ một vị tổ đã hàng trăm trang, nghĩa là tiểu sử đầy đủ từ lúc mới sinh, lúc đi học, đến thi cử, rồi tất cả văn chương sự nghiệp, quan giai lần lần.
Liền sau tên ông là tên bà chính thất (vợ cả), rồi lần lượt tên các bà thứ thất (vợ lẽ) nếu có. Cũng ghi chép đủ phẩm trật nếu có, tên húy, tên hiệu, với cước chú con gái thứ mấy của vị nào, dòng họ nào, ở đâu. Rồi cũng đủ cả ngày sinh ngày mất và mộ địa. Tính tình với những hành vi lúc sinh thời thường cũng được ghi chép.
Những tính tình và hành vi của người trước ghi chép lại, thường có ảnh hưởng tốt cho đời sau. Ngày giỗ con cháu đem gia phả ra đọc cùng nghe, những nhà không có gia phả cũng thường nhân ngày giỗ kể lại tính nết và việc làm của người trước; vốn dĩ vẫn tin tưởng thuyết nhân quả, mới nói cả ra những điều phúc đức đã được hưởng hoặc tai họa đã gặp phải do việc xưa của tiền nhân tạo nên; tự nhiên con cháu cảm thấy phải suy nghĩ và lấy làm răn.
Trước đây làng Yên Thái ở ven Hồ Tây (Hà Nội) chuyên nghề làm giấy có sản xuất loại giấy dày màu vàng hơi sẫm đóng thành quyển, mỗi trang có in dòng kẻ ngân nhũ, bán ra chỉ để chép thần tích tộc phả gia phả.
Người ta quen gọi giấy này là giấy sắc. Những tờ giáy sắc dày hơn bìa vở học sinh ngày nay, màu vàng hơi sậm, khổ chừng 1th50 x 0th60, vẽ rồng ngân nhũ, riêng để cung cấp cho triều đình viết sắc bách thần và các quan to.
Ngoài việc để viết sắc, giấy vàng chỉ còn dùng vào việc chép thần tích gia phả, nhưng không vẽ rồng, chỉ vẽ long hóa vân ám, nhiều quyển chỉ kẻ dòng thẳng chiều dọc để dễ viết. Nhưng quyển giấy sắc để chép phả đóng theo khuôn khổ giấy lệnh viết sách, nghĩa là chừng 0th17 x 0th25, rút nhỏ lại chút ít.
Chữ viết tộc phả gia phả phải đàng tả, nghĩa là ngang bằng sổ ngay đều đặn, gọi là lối khải thư hay là lối chân, nhà giàu họ to thường sắm hộp sơn thếp đựng gia phả tộc phả, để trong khám thờ bên canh bao sắc, giữ gìn cẩn trọng.
Đây là 3254 câu thơ lục bát trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Bản Truyện Kiều này được chia thành 55 phần (theo cách chia trong Truyện Kiều của Phạm Đan Quế).
Mỗi câu thơ trong bản Truyện Kiều này, mình so sánh giữa các phiên bản Truyện Kiều khác nhau, và chọn ra những câu thơ phổ biến nhất (nhiều phiên bản dùng). Nếu câu thơ nào các phiên bản Truyện Kiều dùng khác nhau, thì mình sẽ ghi chú bên cạnh.
(Quá trình soạn những chữ khác nhau giữa phiên bản, mình vẫn đang làm và sẽ cập nhật thường xuyên).
01 – Mở Đầu : Tài Mệnh Ghét Nhau
Trăm năm trong cõi người ta (0001)
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (0002) – (sắc) – (cợt)
Trải qua một cuộc bể dâu (0003)
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng (0004) – (đã)
Lạ gì bỉ sắc tư phong (0005) – (thử)
Trời xanh quen vớimá hồng đánh ghen (0006) – (thói), (mấy)
02 – Gia Thế Và Tài Sắc Thúy Kiều
Cảo thơm lần giở trước đèn (0007)
Phong tình có lục còn truyền sử xanh (0008) – (cổ)
Rằng: năm Gia Tĩnh triều Minh (0009)
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng (0010)
Có nhà viên ngoại họ Vương (0011)
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung (0012) – (nghỉ)
Một trai con thứ rốt lòng (0013)
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia (0014)
Đầu lòng hai ả tố nga (0015)
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân (0016)
Mai cốt cách tuyết tinh thần (0017) Một người một vẻ mười phân vẹn mười (0018) – (Mỗi)
Vân xem trang trọng khác vời (0019) – (tót)
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang (0020) – (lưng) – (người)
Hoa cười ngọc thốt đoan trang (0021) – (nói)
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da (0022)
Kiều càng sắc sảo mặn mà (0023)
So bề tài sắc lại là phần hơn (0024) Làn thu thuỷ nét xuân sơn (0025) – (Gương) – (thấp), (vết)
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh (0026)
Một hai nghiêng nước nghiêng thành (0027) – (đôi)
Sắc đành đòi một tài đành họa hai (0028) – (có)
Thông minh vốn sẵn tính trời (0029)
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm (0030)
Cung thương làu bậc ngũ âm (0031)
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương (0032)
Khúc nhà tay lựa nên chương (0033)
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân (0034)
Phong lưu rất mực hồng quần (0035)
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê (0036)
Êm đềm trướng rủ màn che (0037)
Tường đông ong bướm đi về mặc ai (0038)
03 – Hội Đạp Thanh
Ngày xuân con én đưa thoi (0039)
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi (0040)
Cỏ non xanh tận chân trời (0041)
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (0042)
Thanh minh trong tiết tháng Ba (0043)
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh (0044)
Gần xa nô nức yến anh (0045)
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân (0046)
Dập dìu tài tử giai nhân (0047)
Ngựa xe như nước áo quần như nêm (0048)
Ngổn ngang gò đống kéo lên (0049)
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay (0050)
Tà tà bóng ngả về tây (0051)
Chị em thơ thẩn dan tay ra về (0052)
Bước dần theo ngọn tiểu khê (0053)
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh (0054)
Nao nao dòng nước uốn quanh (0055)
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang (0056)
Sè sè nấm đất bên đàng (0057)
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh (0058)
Rằng: “Sao trong tiết Thanh minh (0059)
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?” (0060)
Vương Quan mới dẫn gần xa: (0061)
“Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi (0062)
Nổi danh tài sắc một thì (0063)
Xôn xao ngoài cửa kém gì yến anh (0064)
Kiếp hồng nhan có mong manh (0065)
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương (0066)
Có người khách ở viễn phương (0067)
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi (0068)
Thuyền tình vừa ghé đến nơi (0069)
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ (0070)
Buồng không lặng ngắt như tờ (0071)
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh (0072)
Khóc than khôn xiết sự tình (0073)
Khéo vô duyên bấy là mình với ta (0074)
Đã không duyên trước chăng mà (0075)
Thì chi chút ước gọi là duyên sau (0076)
Sắm sanh nếp tử xe châu (0077)
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa (0078)
Trải bao thỏ lặn ác tà (0079)
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm” (0080)
Lòng đâu sẵn mối thương tâm (0081)
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa: (0082)
“Đau đớn thay phận đàn bà (0083)
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung (0084)
Phũ phàng chi bấy hoá công (0085)
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha (0086)
Sống làm vợ khắp người ta (0087)
Hại thay thác xuống làm ma không chồng (0088)
Nào người phượng chạ loan chung (0089)
Nào người tiếc lục tham hồng là ai? (0090)
Đã không kẻ đoái người hoài (0091)
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương (0092)
Gọi là gặp gỡ giữa đường (0093)
Họa là người dưới suối vàng biết cho” (0094)
Lầm rầm khấn khứa nhỏ to (0095)
Sụp ngồi bạ cỏ trước mồ bước ra (0096)
Một vùng cỏ áy bóng tà (0097)
Gió hiu hiu thổi một và ngọn lau (0098)
Rút trâm sẵn giắt mái đầu (0099)
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần (0100)
Lại càng mê mẩn tâm thần (0101)
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra (0102)
Lại càng ủ dột nét hoa (0103)
Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài (0104)
Vân rằng: “Chị cũng nực cười (0105)
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” (0106) – (sơ)
Rằng: “Hồng nhan tự thuở xưa (0107)
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu (0108)
Nỗi niềm tưởng đến mà đau (0109)
Thấy người nằm đó biết sau thế nào ?” (0110)
Quan rằng: “Chị nói hay sao (0111)
Một lời là một vận vào khó nghe (0112)
Ở đây âm khí nặng nề (0113)
Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa” (0114)
Kiều rằng: “Những đấng tài hoa (0115)
Thác là thể phách còn là tinh anh (0116)
Dễ hay tình lại gặp tình (0117)
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ!” (0118)
Một lời nói chửa kịp thưa (0119)
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay (0120)
Ào ào đổ lộc rung cây (0121)
Ở trong dường có hương bay ít nhiều (0122)
Đè chừng ngọn gió lần theo (0123)
Dấu giày từng bước in rêu rành rành (0124)
Mắt nhìn ai nấy đều kinh (0125)
Nàng rằng: “Này thực tinh thành chẳng xa (0126)
Hữu tình ta lại gặp ta (0127)
Chớ nề u hiển mới là chị em” (0128)
Đã lòng hiển hiện cho xem (0129)
Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời (0130)
Lòng thơ lai láng bồi hồi (0131)
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi (0132)
04 – Gặp Kim Trọng
Dùng dằng nửa ở nửa về (0133)
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần (0134)
Trông chừng thấy một văn nhân (0135)
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng (0136)
Đề huề lưng túi gió trăng (0137)
Sau chân theo một vài thằng con con (0138)
Tuyết in sắc ngựa câu giòn (0139)
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời (0140)
Nẻo xa mới tỏ mặt người (0141)
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình (0142)
Hài văn lần bước dặm xanh (0143)
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao (0144)
Chàng Vương quen mặt ra chào (0145)
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa (0146)
Nguyên người quanh quất đâu xa (0147)
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh (0148)
Nền phú quý bậc tài danh (0149)
Văn chương nết đất thông minh tính trời (0150) Thiên tư tài mạo tót vời (0151)
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa (0152)
Chung quanh vẫn đất nước nhà (0153)
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân (0154) Trộm nghe thơm nức hương lân (0155)
Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều (0156)
Nước non cách mấy buồng thêu (0157)
Những là trộm dấu thầm yêu chốc mòng (0158)
May thay giải cấu tương phùng (0159)
Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa (0160)
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa (0161)
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai (0162)
Người quốc sắc kẻ thiên tài (0163)
Tình trong như đã mặt ngoài còn e (0164)
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê (0165)
Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn (0166)
Bóng tà như giục cơn buồn (0167)
Khách đà lên ngựa người còn nghé theo (0168)
Dưới cầu nước chảy trong veo (0169)
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha (0170)
05 – Đạm Tiên Báo Mộng
Kiều từ trở gót trướng hoa (0171)
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không (0172)
Gương nga vành vạnh đầy song (0173)
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân (0174)
Hải đường lả ngọn đông lân (0175)
Giọt sương treo nặng cành xuân la đà (0176)
Một mình lặng ngắm bóng nga (0177)
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời: (0178)
“Người mà đến thế thì thôi (0179)
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! (0180)
Người đâu gặp gỡ làm chi (0181)
Trăm năm biết có duyên gì hay không?” (0182)
Ngổn ngang trăm mối bên lòng (0183)
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình (0184)
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành (0185)
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu (0186)
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều (0187)
Có chiều phong vận có chiều thanh tân (0188)
Sương in mặt tuyết pha thân (0189) Sen vàng lãng đãng như gần như xa (0190) Rước mừng đón hỏi dò la: (0191)
“Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?” (0192)
Thưa rằng: “Thanh khí xưa nay (0193)
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên? (0194)
Hàn gia ở mé tây thiên (0195)
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu (0196) Mấy lòng hạ cố đến nhau (0197)
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng (0198)
Vâng trình hội chủ xem tường (0199)
Mà xem trong sổ đoạn trường có tên (0200)
Âu đành quả kiếp nhân duyên (0201)
Cũng người một hội một thuyền đâu xa (0202)
Này mười bài mới mới ra (0203)
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời” (0204)
Kiều vâng lĩnh ý đề bài (0205)
Tay tiên một vẩy đủ mười khúc ngâm (0206)
Xem thơ nức nở khen thầm: (0207)
“Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường (0208)
Ví đem vào tập đoạn trường (0209)
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai” (0210)
Thềm hoa khách đã trở hài (0211)
Nàng còn cầm lại một hai tự tình (0212)
Gió đâu sịch bức mành mành (0213)
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao (0214)
Trông theo nào thấy đâu nào (0215)
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây (0216)
Một mình lưỡng lự canh chầy (0217)
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh! (0218)
Hoa trôi bèo dạt đã đành (0218)
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi! (0220)
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi(0221)
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn (0222)
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan (0223)
Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì: (0224)
“Cớ sao trằn trọc canh khuya (0225)
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?” (0226)
Thưa rằng: “Chút phận ngây thơ (0227)
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền (0228)
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên (0229)
Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao (0230)
Đoạn trường là số thế nào (0231)
Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia (0232)
Cứ trong mộng triệu mà suy (0233)
Phận con thôi có ra gì mai sau!” (0234)
Dạy rằng: “Mộng huyễn chắc đâu (0235)
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao!” (0236)
Vâng lời khuyên giải thấp cao (0237)
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương (0238)
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng (0239)
Nách tường bông liễu bay sang láng giềng (0240)
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng (0241)
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình (0242)
06 – Kim Trọng Tìm Đến Nhà Kiều
Cho hay là giống hữu tình (0243)
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong! (0244)
Chàng Kim từ lại thư song (0245)
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây (0246)
Sầu đong càng khắc càng đầy (0247)
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê (0248)
Mây Tần khóa kín song the (0249)
Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao (0250)
Tuần trăng khuyết đĩa dầu hao (0251)
Mặt mơ tưởng mặt lòng ngao ngán lòng (0252)
Buồng văn hơi giá như đồng (0253)
Trúc se ngón thỏ tơ chùng phím loan (0254)
Mành Tương phất phất gió đàn (0255)
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình (0256)
Ví chăng duyên nợ ba sinh (0257)
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi (0258)
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người (0259)
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi (0260)
Một vùng cỏ mọc xanh rì (0261)
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu! (0262)
Gió chiều như giục cơn sầu (0263)
Vi lau hiu hắt như màu khảy trêu (0264) Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều (0265)
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang (0266)
Thẳm nghiêm kín cổng cao tường (0267)
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh (0268)
Lơ thơ tơ liễu buông mành (0269)
Con oanh học nói trên cành mỉa mai (0270)
Mấy lần cửa đóng then cài (0271) Dãy thềm hoa rụng biết người ở đâu? (0272)
Tần ngần đứng suốt giờ lâu (0273)
Dạo quanh chợt thấy mé sau có nhà (0274)
Là nhà Ngô Việt thương gia (0275)
Buồng không để đó người xa chưa về (0276)
Lấy điều du học hỏi thuê (0277)
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang (0278)
Có cây có đá sẵn sàng (0279)
Có hiên Lãm Thúy nét vàng chưa phai (0280)
Mừng thầm chốn ấy chữ bài (0281)
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây (0282)
Song hồ nửa khép cánh mây (0283)
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông (0284)
Tấc gang động khóa nguồn phong (0285)
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra (0286)
07 – Kim Kiều Trao Thoa Đính Ước
Nhẫn từ quán khách lân la (0287)
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai (0288)
Cách tường phải buổi im trời (0289)
Dưới đào dường có bóng người thướt tha (0290)
Buông cầm xốc áo vội ra (0291)
Hương còn thơm nức người đà vắng tanh (0292)
Lần theo tường gấm dạo quanh (0293)
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa (0294)
Giơ tay với lấy về nhà: (0295)
“Này trong khuê các đâu mà đến đây? (0296) Gẫm âu người ấy báu này (0297)
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm” (0298)
Liền tay ngắm nghía biếng nằm (0299)
Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai (0300)
Tan sương đã thấy bóng người (0301)
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ (0302)
Sinh đà có ý đợi chờ (0303)
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng: (304)
“Thoa này bắt được hư không (0305)
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?” (0306)
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia: (0307)
“Ơn lòng quân tử sá gì của rơi (0308)
Chiếc thoa nào của mấy mươi (0309)
Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao” (0310)
Sinh rằng: “Lân lý ra vào (0311)
Gần đây nào phải người nào xa xôi (0312)
Được rày nhờ chút thơm rơi (0313)
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay (0314)
Bấy lâu mới được một ngày (0315)
Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là” (0316)
Vội về thêm lấy của nhà (0317)
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông (0318)
Vén mây rón bước ngọn tường (0319)
Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe? (0320)
Sượng sùng giữ ý rụt rè (0321)
Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu (0322)
Rằng: “Từ ngẫu nhĩ gặp nhau (0323)
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn (0324)
Xương mai tính đã rũ mòn (0325)
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay (0326)
Tháng tròn như gửi cung mây (0327)
Trần trần một phận ấp cây đã liều (0328)
Tiện đây xin một hai điều (0329)
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?” (0330)
Ngần ngừ nàng mới thưa rằng” (0331)
“Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong (0332)
Dù khi lá thắm chỉ hồng (0333)
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha (0334)
Nặng lòng xót liễu vì hoa (0335)
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa” (0336)
Sinh rằng: “Rày gió mai mưa (0337)
Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi (0338)
Dù chăng xét tấm tình si (0339)
Thiệt đây mà có ích gì đến ai? (0340)
Chút chi gắn bó một hai (0341)
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh (0342)
Khuôn thiêng dù phụ tấc thành (0343)
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời (0344)
Lượng xuân dù quyết hẹp hòi (0345)
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru” (0346)
Lặng nghe lời nói như ru (0347)
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng (0348)
Rằng: “Trong buổi mới lạ lùng (0349)
Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang? (0350)
Đã lòng quân tử đa mang (0351)
Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung” (0352)
Được lời như cởi tấm lòng (0353)
Giở kim châu với khăn hồng trao tay (0354)
Rằng: “Trăm năm cũng từ đây (0355)
Của tin gọi một chút này làm ghi” (0356)
Sẵn tay bả quạt hoa quỳ (0357)
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao (0358)
Một lời gắn bó tất giao (0359) Mé sau dường có xôn xao tiếng người (0360)
Vội vàng lá rụng hoa rơi (0361)
Chàng về thư viện nàng dời lầu trang (0362)
Từ phen đá biết tuổi vàng (0363)
Tình càng thấm thía lòng càng ngẩn ngơ (0364)
Sông Tương một dải nông sờ (0365)
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia (0366)
Một tường tuyết chở sương che (0367)
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng (0368)
08 – Kim Kiều Thề Nguyền
Lần lần ngày gió đêm trăng (0369)
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua (0370)
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia (0371)
Trên hai đường dưới nữa là hai em (0372)
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm (0373)
Biện dâng một lễ xa đem tấc thành (0374)
Nhà lan thanh vắng một mình (0375)
Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay (0376)
Thời trân thức thức sẵn bày (0377)
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường (0378)
Cách hoa sẽ dắng tiếng vàng (0379)
Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông: (0380)
“Trách lòng hờ hững với lòng (0381)
Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu (0382)
Những là đắp nhớ đổi sầu (0383)
Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm” (0384)
Nàng rằng: “Gió bắt mưa cầm (0385)
Đã cam tệ với tri âm bấy chầy (0386)
Vắng nhà được buổi hôm nay (0387)
Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng” (0388)
Lần theo núi giả đi vòng (0389)
Cuối tường dường có nẻo thông mới rào (0390)
Sấn tay mở khóa động đào (0391)
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai (0392)
Mặt nhìn mặt càng thêm tươi (0393)
Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên (0394)
Sánh vai về chốn thư hiên (0395)
Ngâm lời phong nguyệt nặng nguyền non sông (0396)
Trên yên bút giá thư đồng (0397)
Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên (0398)
Phong sương được vẻ thiên nhiên (0399)
Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi (0400)
Sinh rằng: “Phác họa vừa rồi (0401)
Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa” (0402)
Tay tiên gió táp mưa sa (0403)
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu (0404)
Khen: “Tài nhả ngọc phun châu (0405)
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này (0406)
Kiếp tu xưa ví chưa dày (0407)
Phúc nào đổi được giá này cho ngang” (0408)
Nàng rằng: “Trộm liếc dung quang (0409)
Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn (0410)
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn (0411)
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay? (0412)
Nhớ từ năm hãy thơ ngây (0413)
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời: (0414)
Anh hoa phát tiết ra ngoài (0415)
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa (0416)
Trông người lại ngẫm đến ta (0417)
Một dày một mỏng biết là có nên?” (0418)
Sinh rằng: “Giải cấu là duyên (0419)
Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều (0420)
Ví dù giải kết đến điều (0421)
Thì đem vàng đá mà liều với thân” (0422)
Đủ điều trung khúc ân cần (0423)
Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng (0424)
Ngày vui ngắn chẳng đầy gang (0425)
Trông ra ác đã ngậm gương non đoài (0426)
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai (0427)
Giã chàng nàng mới kíp dời song sa (0428)
09 – Sang Nhà Kim Trọng Lần II
Đến nhà vừa thấy tin nhà (0429)
Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về (0430)
Cửa ngoài vội rủ rèm the (0431)
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình (0432)
Nhặt thưa gương gối đầu cành (0433)
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu (0434)
Sinh vừa tựa án thiu thiu (0435)
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê (0436)
Tiếng sen sẽ động giấc hòe (0437)
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần (0438)
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần (0439)
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng (0440)
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường (0441)
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa (0442)
Bây giờ rõ mặt đôi ta (0443)
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?” (0444)
Vội mừng làm lễ rước vào (0445)
Đài sen nối sáp song đào thêm hương (0446)
Tiên thề cùng thảo một chương (0447)
Tóc mây một món dao vàng chia đôi (0448)
Vầng trăng vằng vặc giữa trời (0449)
Đinh ninh hai miệng một lời song song (0450)
Tóc tơ căn vặn tấc lòng (0451)
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương (0452)
Chén hà sánh giọng quỳnh tương (0453)
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng (0454)
Sinh rằng: “Gió mát trăng trong (0455)
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam (0456)
Chày sương chưa nện cầu Lam (0457)
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?” (0458)
Nàng rằng: “Hồng diệp xích thằng (0459)
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri (0460)
Đừng điều nguyệt nọ hoa kia (0461)
Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai (0462)
10 – Đàn Cho Kim Trọng Lần I
Rằng: “Nghe nổi tiếng cầm đài (0463)
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ” (0464)
Thưa rằng: “Tiện kỹ sá chi (0465)
Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng” (0466)
Hiên sau treo sẵn cầm trăng (0467)
Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày (0468)
Nàng rằng: ‘Nghề mọn riêng tay (0469)
Làm chi cho nặng lòng này lắm thân” (0470)
So dần dây vũ dây văn (0471)
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương (0472)
Khúc đâu Hán Sở chiến trường (0473)
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau (0474)
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu (0475)
Nghe ra như oán như sầu phải chăng? (0476)
Kê Khang này khúc Quảng Lăng (0477)
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân (0478)
Quá quan này khúc Chiêu Quân (0479)
Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia (0480)
Trong như tiếng hạc bay qua (0481)
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời (0482)
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài (0483)
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (0484)
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ (0485)
Khiến người ngồi đấy mà ngơ ngẩn sầu (0486)
Khi tựa gối khi cúi đầu (0487)
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày (0488)
Rằng: “Hay thì thật là hay (0489)
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào (0490)
Lựa chi những bậc tiêu tao (0491)
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người” (0492)
Rằng: “Quen mất nết đi rồi (0493)
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao (0494)
Lời vàng vâng lĩnh ý cao (0495)
Họa dần dần bớt chút nào được không?” (0496)
Hoa hương càng tỏ thức hồng (0497)
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu (0498)
Sóng tình dường đã xiêu xiêu (04959)
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi (0500)
Thưa rằng: “Đừng lấy làm chơi (0501)
Dẽ cho thưa hết một lời đã nao (0502)
Vẻ chi một đóa yêu đào (0503)
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh (0504)
Đã cho vào bậc bố kinh (0505)
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu (0506)
Ra tuồng trên Bộc trong dâu (0507)
Thì con người ấy ai cầu làm chi (0508)
Phải điều ăn xổi ở thì (0509)
Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày (0510)
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay (0511)
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương (0512)
Mây mưa đánh đổ đá vàng (0513)
Quá chiều nên đã chán chường yến anh (0514)
Trong khi chắp cánh liền cành (0515)
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên (0516)
Mái Tây để lạnh hương nguyền (0517)
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng (0518)
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng (0519)
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai? (0520)
Vội chi liễu ép hoa nài (0521)
Còn thân ắt lại đền bồi có khi” (0522)
Thấy lời đoan chính dễ nghe (0523)
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân (0524)
Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân ((0525)
Tin đâu đã đến cửa ngăn gọi vào (0526)
Nàng thì vội trở buồng thêu (0527)
Sinh thì rảo bước sân đào bước ra (0528)
11 – Tiễn Kim Trọng Về Liêu Dương
Cửa sài vừa ngỏ then hoa (0529)
Gia đồng vào gửi thư nhà mới sang (0530)
Đem tin thúc phụ từ đường (0531)
Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề (0532)
Liêu Dương cách trở sơn khê (0533)
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang (0534)
Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng (0535)
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình (0536)
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh (0537)
Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi: (0538)
‘Sự đâu chưa kịp đôi hồi (0539)
Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ (0540)
Trăng thề còn đó trơ trơ (0541)
Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng (0542)
Ngoài nghìn dặm chốc ba đông (0543)
Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy (0544)
Gìn vàng giữ ngọc cho hay (0545)
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời” (0546)
Tai nghe ruột rối bời bời (0547)
Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau: (0548)
“Ông tơ ghét bỏ chi nhau (0549)
Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi (0550)
Cùng nhau trót đã nặng lời (0551)
Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ (0552)
Quản bao tháng đợi năm chờ (0553)
Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm (0554)
Đã nguyền hai chữ đồng tâm (0555)
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai (0556)
Còn non còn nước còn dài (0557)
Còn về còn nhớ đến người hôm nay” (0558)
Dùng dằng chưa nỡ rời tay (0559)
Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà (0560)
Ngại ngùng một bước một xa (0561)
Một lời trân trọng châu sa mấy hàng (0562)
Buộc yên quẩy gánh vội vàng (0563)
Mối sầu sẻ nửa bước đường chia hai (0564)
Buồn trông phong cảnh quê người (0565)
Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa (0566)
Não người cữ gió tuần mưa (0567)
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày (0568)
Nàng thì đứng tựa hiên tây (0569)
Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ (0570)
Trông chừng khói ngất song thưa (0571)
Hoa trôi dạt thắm liễu xơ xác vàng (0572)
12 – Gia Biến
Tần ngần dạo gót lầu trang (0573)
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về (0574)
Hàn huyên chưa kịp dã dề (0575)
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao (0576)
Người nách thước kẻ tay đao (0577)
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi (0578)
Già giang một lão một trai (0579)
Một dây vô loại buộc hai thâm tình (0580)
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh (0581)
Rụng rời giọt liễu tan tành cội mai (0582)
Đồ tế nhuyễn của riêng tây (0583)
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham (0584)
Điều đâu bay buộc ai làm (0585)
Này ai đan rập giật dàm bỗng dưng? (0586)
Hỏi ra sau mới biết rằng: (0587)
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ (0588)
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ (0589)
Tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây (0590)
Hạ từ van lạy suốt ngày (0591)
Điếc tai lân tuất phũ tay tồi tàn (0592)
Rường cao rút ngược dây oan (0593)
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người (0594)
Mặt trông đau đớn rụng rời (0595)
Oan này còn một kêu trời nhưng xa (0596)
Một ngày lạ thói sai nha (0597)
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền (0598)
13 – Bán Mình Chuộc Cha
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền (0599)
Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao (0600)
Duyên hội ngộ đức cù lao (0601)
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn? (0602)
Để lời thệ hải minh sơn (0603)
Làm con trước phải đền ơn sinh thành. (0604)
Quyết tình nàng mới hạ tình: (0605)
“Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha” (0606)
Họ Chung có kẻ lại già (0607)
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm (0608)
Thấy nàng hiếu trọng tình thâm (0609)
Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay (0610)
Tính bài lót đó luồn đây (0611)
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi (0612)
Hãy về tạm phó giam ngoài (0613)
Dặn nàng quy liệu trong đôi ba ngày (0614)
Thương tình con trẻ thơ ngây (0615)
Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ (0616)
Đau lòng tử biệt sinh ly (0617)
Thân còn chẳng tiếc tiếc gì đến duyên (0618)
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn (0619)
Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân (0620)
14 – Mã Giám Sinh Mua Kiều
Sự lòng ngỏ với băng nhân (0621)
Tin sương đồn đại xa gần xôn xao (0622)
Gần miền có một mụ nào (0623)
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh (0624)
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh” (0625)
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần” (0626)
Quá niên trạc ngoại tứ tuần (0627)
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao (0628)
Trước thầy sau tớ xôn xao (0629)
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang (0630)
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng (0631)
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra (0632)
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà (0633)
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng (0634)
Ngại ngùng rợn gió e sương (0635)
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày (0636)
Mối càng vén tóc bắt tay (0637)
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai (0638)
Đắn đo cân sắc cân tài (0639)
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ (0640)
Mặn nồng một vẻ một ưa (0641)
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu (0641)
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều (0643)
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?” (0644)
Mối rằng: “Giá đáng nghìn vàng (0645)
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài” (0646)
Cò kè bớt một thêm hai (0647)
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm (0648)
Một lời thuyền đã êm dầm (0649)
Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi (0650)
Định ngày nạp thái vu quy (0651)
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong (0652)
Một lời cậy với Chung Công (0653)
Khất từ tạm lĩnh Vương Ông về nhà (0654)
15 – Hoàn Thành Hôn Thú
Thương tình con trẻ cha già (0655)
Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu: (0656)
“Nuôi con những ước về sau (0657)
Trao tơ phải lứa gieo cầu đáng nơi (0658)
Trời làm chi cực bấy trời (0659)
Này ai vu thác cho người hợp tan (0660)
Búa rìu bao quản thân tàn (0661)
Nỡ đày đọa trẻ càng oan khốc già (0662)
Một lần sau trước cũng là (0663)
Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau” (0664)
Theo lời càng chảy dòng châu (0665)
Liều mình ông đã gieo đầu tường vôi (0666)
Vội vàng kẻ giữ người coi (0667)
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can: (0668)
“Vẻ chi một mảnh hồng nhan (0669)
Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành (0670)
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh (0671)
Lại thua ả Lý bán mình hay sao? (0672)
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao (0673)
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành (0674)
Lượng trên dù chẳng dứt tình (0675)
Gió mưa âu hẳn tan tành nước non (0676)
Thà rằng liều một thân con (0677)
Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây (0678)
Phận sao đành vậy cũng vầy (0679)
Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh (0680)
Cũng đừng tính quẩn toan quanh (0681)
Tan nhà là một thiệt mình là hai” (0682)
Phải lời, ông cũng êm tai (0683)
Nhìn nhau giọt ngắn giọt dài ngổn ngang (0684)
Mái ngoài họ Mã vừa sang (0685)
Tờ hoa đã ký cân vàng mới trao (0686)
Trăng già độc địa làm sao (0687)
Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên (0688)
Trong tay đã sẵn đồng tiền (0689)
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì (0690)
Họ Chung ra sức giúp vì (0691)
Lễ tâm đã đặt tụng kỳ cũng xong (0692)
16 – Trao Duyên
Việc nhà đã tạm thong dong (0693)
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về (0694)
Một mình nương ngọn đèn khuya (0695)
Áo dầm giọt lệ tóc se mái sầu: (0696)
“Phận dầu dầu vậy cũng dầu (0697)
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời (0698)
Công trình kể biết mấy mươi (0699)
Vì ta khăng khít cho người dở dang (0700)
Thề hoa chưa ráo chén vàng (0701)
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa (0702)
Trời Liêu non nước bao xa (0703)
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi (0704)
Biết bao duyên nợ thề bồi (0705)
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì (0706)
Tái sinh chưa dứt hương thề (0707)
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai (0708)
Nợ tình chưa trả cho ai (0709)
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan” (0710)
Nỗi riêng riêng những bàn hoàn (0711)
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn (0712)
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân (0713)
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han: (0714)
“Cơ trời dâu bể đa đoan (0715)
Một nhà để chị riêng oan một mình (0716)
Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh (0717)
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?” (0718)
Rằng: “Lòng đương thổn thức đầy (0719)
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong (0720)
Hở môi ra cũng thẹn thùng (0721)
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai (0722)
Cậy em em có chịu lời (0723)
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa (0724)
Giữa đường đứt gánh tương tư (0725)
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em (0726)
Kể từ khi gặp chàng Kim (0727)
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề (0728)
Sự đâu sóng gió bất kỳ (0729)
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? (0730)
Ngày xuân em hãy còn dài (0731)
Xót tình máu mủ thay lời nước non (0732)
Chị dù thịt nát xương mòn(0733)
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây” (0734)
Chiếc vành với bức tờ mây (0735)
Duyên này thì giữ vật này của chung (0736)
Dù em nên vợ nên chồng (0737)
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên (0738)
Mất người còn chút của tin (0739)
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa (0740)
Mai sau dù có bao giờ (0741)
Đốt lò hương ấy so tơ phím này (0742)
Trông ra ngọn cỏ lá cây (0743)
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về (0744)
Hồn còn mang nặng lời thề (0745)
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai (0746)
Dạ đài cách mặt khuất lời (0747)
Rước xin chén nước cho người thác oan (0748)
Bây giờ trâm gãy gương tan (0749)
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân? (0750)
Trăm nghìn gửi lạy tình quân (0751)
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi (0752)
Phận sao phận bạc như vôi? (0753)
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng (0754)
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! (0755)
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” (0756)
Cạn lời hồn dứt máu say (0757)
Một hơi lặng ngắt đôi tay lạnh đồng (0758)
Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng (0759)
Một nhà vây lớp kẻ trong người ngoài (0760)
Kẻ thang người thuốc bời bời (0761)
Mới dàu cơn vựng chưa phai giọt hồng (0762)
Hỏi: “Sao ra sự lạ lùng? (0763)
Kiều càng nức nở mở không ra lời (0764)
Nỗi nàng Vân mới rỉ tai: (0765)
“Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây” (0766)
“Này cha làm lỗi duyên mày (0767)
Thôi thì nỗi ấy sau này đã em (0768)
Vì ai rụng cải rơi kim (0769)
Để con bèo nổi mây chìm vì ai? (0770)
Lời con dặn lại một hai (0771)
Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng” (0772)
Lạy thôi nàng lại thưa chiềng: (0773)
“Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi (0774)
Sá chi thân phận tôi đòi (0775)
Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu.” (0776)
17 – Đến Trú Phường
Xiết bao kể nỗi thảm sầu (0777)
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi (0778)
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài (0779)
Quản huyền đâu đã giục người sinh ly (0780)
Đau lòng kẻ ở người đi (0781)
Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm (0782)
Trời hôm mây kéo tối rầm (0783)
Dàu dàu ngọn cỏ đầm đầm cành sương (0784)
Rước nàng về đến trú phường (0785)
Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong (0786)
Ngập ngừng thẹn lục e hồng (0787)
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen: (0788)
“Phẩm tiên rơi đến tay hèn (0789)
Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai (0790)
Biết thân đến bước lạc loài (0791)
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung (0792)
Vì ai ngăn đón gió đông (0793)
Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi (0794)
Trùng phùng dù họa có khi (0795)
Thân này thôi có còn gì mà mong (0796)
Đã sinh ra số long đong (0797)
Còn mang lấy nghiệp má hồng được sao?” (0798)
Trên yên sẵn có con dao (0799)
Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn: (0800)
“Phòng khi nước đã đến chân (0801)
Dao này thì liệu với thân sau nàỵ” (0802)
Đêm thu một khắc một chầy (0803)
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình. (0804)
18 – Con Ong Đã Tỏ Đường Đi Lối Về
Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh (0805)
Vẫn là một đứa phong tình đã quen (0806)
Quá chơi lại gặp hồi đen (0807)
Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa (0808)
Lầu xanh có mụ Tú Bà (0809)
Làng chơi đã trở về già hết duyên (0810)
Tình cờ chẳng hẹn mà nên (0811)
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường (0812)
Chung lưng mở một ngôi hàng (0813)
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề (0814)
Dạo tìm khắp chợ thì quê (0815)
Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi (0816)
Rủi may âu cũng sự trời (0817)
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên (0818)
Xót nàng chút phận thuyền quyên (0819)
Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn (0820)
Mẹo lừa đã mắc vào khuôn (0821)
Sính nghi rẻ giá nghênh hôn sẵn ngày (0822)
Mừng thầm: “Cờ đã đến tay (0823)
Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng (0824)
“Đã nên quốc sắc thiên hương (0825)
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa (0826)
Về đây nước trước bẻ hoa (0827)
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau (0828)
Hẳn ba trăm lạng kém đâu (0829)
Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời” (0830)
Miếng ngon kề đến tận nơi (0831)
Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham: (0832)
“Đào tiên đã bén tay phàm (0833)
Thì vin cành quít cho cam sự đời (0834)
Dưới trần mấy mặt làng chơi (0835)
Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa (0836)
Nước vỏ lựu máu mào gà (0837)
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên (0838)
Mập mờ đánh lận con đen (0839)
Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi? (0840)
Mụ già hoặc có điều gì (0841)
Liều công mất một buổi quỳ mà thôi (0842)
Vả đây đường sá xa xôi (0843)
Mà ta bất động nữa người sinh nghi.” (0844)
Tiếc thay một đóa trà mi (0845)
Con ong đã mở đường đi lối về (0846)
Một cơn mưa gió nặng nề (0847)
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương (0848)
Tiệc xuân một giấc mơ màng (0849)
Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ (0850)
Giọt riêng tầm tã tuôn mưa (0851)
Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình: (0852)
“Tuồng chi là giống hôi tanh (0853)
Thân nghìn vàng để ô danh má hồng (0854)
Thôi còn chi nữa mà mong (0855)
Đời người thôi thế là xong một đời” (0856)
Giận duyên tủi phận bời bời (0857)
Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh (0858)
Nghĩ đi nghĩ lại một mình: (0859)
“Một mình thì chớ hai tình thì sao? (0860)
Sau dù sinh sự thế nào (0861)
Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân (0862)
Nỗi mình âu cũng giãn dần (0863)
Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi” (0864)
Những là đo đắn ngược xuôi (0865)
Tiếng gà nghe đã gáy sôi mé tường. (0866)
19 – Đường Đến Lâm Tri
Lầu mai vừa rúc còi sương (0867)
Mã sinh giục dạo vội vàng ra đi (0868)
Đoạn trường thay lúc phân kỳ (0869)
Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh (0870)
Bề ngoài mười dặm trường đình (0871)
Vương Ông mở tiệc tiễn hành đưa theo (0872)
Ngoài thì chủ khách dập dìu (0873)
Một nhà huyên với một Kiều ở trong (0874)
Nhìn càng lã chã giọt hồng (0875)
Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao: (0876)
“Hổ sinh ra phận tơ đào (0877)
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong (0878)
Lỡ làng nước đục bụi trong (0879)
Trăm năm để một tấm lòng từ đây (0880)
Xem gương trong bấy nhiêu ngày (0881)
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già (0882)
Khi về bỏ vắng trong nhà (0883)
Khi vào dùi dắng khi ra vội vàng (0884)
Khi ăn khi nói lỡ làng (0885)
Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh (0886)
Khác màu kẻ quý người thanh (0887)
Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn (0888)
Thôi con còn nói chi con (0889)
Sống nhờ đất khách thác chôn quê người” (0890)
Vương Bà nghe bấy nhiêu lời (0891)
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên (0892)
Vài tuần chưa cạn chén khuyên (0893)
Mé ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe (0894)
Xót con lòng nặng trì trì (0895)
Trước yên ông đã nằn nì thấp cao: (0896)
“Chút thân yếu liễu thơ đào (0897)
Dớp nhà đến nỗi dấn vào tôi ngươi (0898)
Từ đây góc bể chân trời (0899)
Nắng mưa thui thủi quê người một thân (0900)
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân (0901)
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng” (0902)
Cạn lời khách mới thưa rằng: (0903)
“Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao (0904)
Mai sau dầu đến thế nào (0905)
Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần” (0906)
Đùng đùng gió giục mây vần (0907)
Một xe trong cõi hồng trần như bay (0908)
Trông vời gạt lệ phân tay (0909)
Góc trời thăm thẳm ngày ngày đăm đăm (0910)
Nàng thì dặm khách xa xăm (0911)
Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây (0912)
Vi lô san sát hơi may (0913)
Một trời thu để riêng ai một người (0914)
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi (0915)
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông (0916)
Rừng thu từng biếc chen hồng (0917)
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn. (0918)
20 – Vào Lầu Xanh Lần I
Những là lạ nước lạ non (0919)
Lâm Tri vừa một tháng tròn tới nơi (0920)
Xe châu dừng bánh cửa ngoài (0921)
Rèm trong đã thấy một người bước ra (0922)
Thoắt trông lờn lợt màu da (0923)
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao? (0924)
Trước xe lơi lả han chào (0925)
Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi (0926)
Bên thì mấy ả mày ngài (0927)
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi (0928)
Giữa thì hương nến hẳn hoi (0929)
Trên treo một tượng trắng đôi lông mày (930)
Lầu xanh quen lối xưa nay (0931)
Nghề này thì lấy ông này tiên sư (0932)
Hương hôm hoa sớm phụng thờ (0933)
Cô nào xấu vía cho thưa mối hàng (0934)
Cởi xiêm lột áo sỗ sàng (0935)
Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm (0936)
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm (0937)
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi (0938)
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì (0939)
Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay: (0940)
“Cửa hàng buôn bán cho may (0941)
Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu (0942)
Muôn nghìn người thấy cũng yêu (0943)
Xôn xao oanh yến dập dìu trúc mai (0944)
Tin nhạn vẩn lá thư bài (0945)
Đưa người cửa trước rước người cửa sau” (0946)
Lạ tai nghe chửa biết đâu (0947)
Xem tình ra cũng những màu dở dang (0948)
Lễ xong hương hỏa gia đường (0949)
Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay (0950)
Dạy rằng: “Con lạy mẹ đây (0951)
Lạy rồi thì lạy cậu mày bên kia” (0952)
Nàng rằng: “Phải bước lưu ly (0953)
Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh (0954)
Điều đâu lấy yến làm anh (0955)
Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì (0956)
Đủ điều nạp thái vu quy (0957)
Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi (0958)
Giờ ra thay bậc đổi ngôi (0959)
Dám xin gửi lại một lời cho minh” (0960)
Mụ nghe nàng nói hay tình (0961)
Bây giờ mới nổi tam bành mụ lên: (0962)
“Này này sự đã quả nhiên (0963)
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi (0964)
Bảo rằng đi dạo lấy người (0965)
Đem về rước khách kiếm lời mà ăn (0966)
Tuồng vô nghĩa ở bất nhân (0967)
Buồn mình trước đã tần mần thử chơi (0968)
Màu hồ đã mất đi rồi (0969)
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma (0970)
Con kia đã bán cho ta (0971)
Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây (0972)
Lão kia có giở bài bây (0973)
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe (0974)
Cớ sao chịu tốt một bề (0975)
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao (0976)
Phải làm cho biết phép tao” (0977)
Giật bì tiên rắp sấn vào ra tay (0978)
Nàng rằng: “Trời thẳm đất dày (0979)
Thân này đã bỏ những ngày ra đi (0980)
Thôi thì thôi có tiếc gì” (0981)
Sẵn dao tay áo tức thì giở ra (0982)
Sợ gan nát ngọc liều hoa (0983)
Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay (0984)
Thương ôi tài sắc mực này (0985)
Một dao oan nghiệt dứt dây phong trần. (0986)
21 – Tú Bà Dỗ Kiều Ra Lầu Ngưng Bích
Nỗi oan vỡ lở xa gần (0987)
Trong nhà người chật một lần như nêm (0988)
Nàng thì bằn bặt giấc tiên (0989)
Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay (0990)
Vực nàng vào chốn hiên tây (0991)
Cắt người coi sóc rước thầy thuốc men (0992)
Nào hay chưa hết trần duyên (0993)
Trong mê dường đã đứng bên một nàng (0994)
Rỉ rằng: “Nhân quả dở dang (0995)
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao (0996)
Số còn nặng nghiệp má đào (0997)
Người dù muốn quyết trời nào đã cho (0998)
Hãy xin hết kiếp liễu bồ (0999)
Sông Tiền Đường đó hẹn hò về sau” (1000)
Thuốc thang suốt một ngày thâu (1001)
Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan (1002)
Tú Bà chực sẵn bên màn (1003)
Dịu lời khuyên giải mơn man gỡ dần (1004)
Một người dễ có mấy thân (1005)
Hoa xuân đương nhụy ngày xuân còn dài (1006)
Cũng là lỡ một lầm hai (1007)
Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây (1008)
Lỡ chân trót đã vào đây (1009)
Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non (1010)
Người còn thì của hãy còn (1011)
Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà (1012)
Làm chi tội báo oan gia (1013)
Thiệt mình mà hại đến ta hay gì” (1014)
Kề tai mấy nỗi nằn nì (1015)
Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi (1016)
Vả trong thần mộng mấy lời (1017)
Túc nhân thì cũng có trời ở trong (1018)
Kiếp này nợ trả chưa xong (1019)
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau (1020)
Lặng nghe ngẫm nghĩ gót đầu (1021)
Thưa rằng: “Ai có muốn đâu thế này (1022)
Được như lời thế là may (1023)
Hẳn rằng mai có như rày cho chăng (1024)
Sợ khi ong bướm đãi đằng (1025)
Đến điều sống đục sao bằng thác trong” (1026)
Mụ rằng: “Con hãy thong dong (1027)
Phải điều lòng lại đổi lòng mà chơi (1028)
Mai sau ở chẳng như lời (1029)
Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi” (1030)
Thấy lời quyết đoán hẳn hoi (1031)
Đành lòng nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần (1032)
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân (1033)
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung (1034)
Bốn bề bát ngát xa trông (1035)
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia (1036)
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya (1037)
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng (1038)
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng (1039)
Tin sương luống hãy rày trông mai chờ (1040)
Bên trời góc bể bơ vơ (1041)
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai (1042)
Xót người tựa cửa hôm mai (1043)
Quạt nồng đắp lạnh những ai đó giờ? (1044)
Sân Lai cách mấy nắng mưa (1045)
Có khi gốc tử đã vừa người ôm (1046)
Buồn trông cửa bể chiều hôm (1047)
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa (1048)
Buồn trong ngọn nước mới sa (1049)
Hoa trôi man mác biết là về đâu (1050)
Buồn trông nội cỏ dàu dàu (1051)
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh (1052)
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh (1053)
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. (1054)
22 – Mắc Lừa Sở Khanh
Chung quanh những nước non người (1055)
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu (1056)
Ngậm ngùi rủ bức rèm châu (1057)
Cách lầu nghe có tiếng đâu họa vần (1058)
Một chàng vừa trạc thanh xuân (1059)
Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng (1060)
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương (1061)
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh (1062)
Bóng nga thấp thoáng dưới mành (1063)
Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai (1064)
“Than ôi! Sắc nước hương trời (1065)
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây (1066)
Giá đành trong nguyệt trên mây (1067)
Hoa sao hoa khéo đọa đày bấy hoa (1068)
Sốt gan riêng giận trời già (1069)
Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng (1070)
Thuyền quyên ví biết anh hùng (1071)
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi” (1072)
Song thu đã khép cánh ngoài (1073)
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh (1074)
Nghĩ người thôi lại nghĩ mình (1075)
Cảm lòng chua xót lạt tình bơ vơ (1076)
Những là lần lữa nắng mưa (1077)
Kiếp phong trần biết bao giờ là thôi (1078)
Đánh liều nhắn một hai lời (1079)
Nhờ tay tế độ với người trầm luân (1080)
Mảnh tiên kể hết xa gần (1081)
Nỗi nhà báo đáp nỗi thân lạc loài (1082)
Tan sương vừa rạng ngày mai (1083)
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gởi sang (1084)
Trời tây lãng đãng bóng vàng (1085)
Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi (1086)
Mở xem một bức tiên mai (1087)
Rành rành tích việt có hai chữ đề (1088)
Lấy trong ý tứ mà suy: (1089)
“Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng?” (1090)
Chim hôm thoi thót về rừng (1091)
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành (1092)
Tường đông lay động bóng cành (1093)
Đẩy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào (1094)
Sượng sùng đánh dạn ra chào (1095)
Lạy thôi nàng mới rỉ trao ân cần (1096)
Rằng: “Tôi bèo bọt chút thân (1097)
Lạc đường mang lấy nợ nần yến anh (1098)
Dám nhờ cốt nhục tử sinh (1099)
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau” (1100)
Lặng ngồi tủm tỉm gật đầu: (1101)
“Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng (1102)
Nàng đà biết đến ta chăng (1103)
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi” (1104)
Nàng rằng: “Muôn sự ơn người (1105)
Thế nào xin quyết một bài cho xong” (1106)
Rằng: “Ta có ngựa truy phong (1107)
Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi (1108)
Thừa cơ lẻn bước ra đi (1109)
Ba mươi sáu chước chước gì là hơn (1110)
Dù khi gió kép mưa đơn (1111)
Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì” (1112)
Nghe lời nàng đã sinh nghi (1113)
Song đà quá đỗi quản gì được thân (1114)
Cũng liều nhắm mắt đưa chân (1115)
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu (1116)
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu (1117)
Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn (1118)
Đêm thu khắc lậu canh tàn (1119)
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương (1120)
Lối mòn cỏ lợt màu sương (1121)
Lòng quê đi một bước đường một đau. (1122)
23 – Bị Tú Bà Bắt
Tiếng gà xao xác gáy mau (1123)
Tiếng người đâu đã mé sau dậy dàng (1124)
Nàng càng thổn thức gan vàng (1125)
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào (1126)
Một mình khôn biết làm sao (1127)
Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng (1128)
Hóa nhi thật có nỡ lòng (1129)
Làm chi giày tía vò hồng lắm nau (1130)
Một đoàn đổ đến trước sau (1131)
Vuốt đâu xuống đất cánh đâu lên trời (1132)
Tú Bà tốc thẳng đến nơi (1133)
Hằm hằm áp điệu một hơi lại nhà (1134)
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra (1135)
Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời (1136)
Thịt da ai cũng là người (1137)
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau (1138)
Hết lời thú phục khẩn cầu (1139)
Uốn lưng thịt đổ cất đầu máu sa (1140)
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà (1141)
Nước non lìa cửa lìa nhà đến đây (1142)
Bây giờ sống chết ở tay (1143)
Thân này đã đến thế này thì thôi (1144)
Nhưng tôi có sá chi tôi (1145)
Phận tôi đành vậy vốn người để đâu (1146)
Thân lươn bao quản lấm đầu (1147)
Chút lòng trinh bạch từ sau cũng chừa” (1148)
Được lời mụ mới tùy cơ (1149)
Bắt người bảo lãnh làm tờ cung chiêu (1150)
Bày vai có ả Mã Kiều (1151)
Xót nàng ra mới đánh liều chịu đoan (1152)
Mụ càng kể nhặt kể khoan (1153)
Gạn gùng đến mực nồng nàn mới tha. (1154)
24 – Lấy Thân Mà Trả Nợ Đời
Vực nàng vào nghỉ trong nhà (1155)
Mã Kiều lại hở ý ra dặn lời: (1156)
“Thôi đà mắc lận thì thôi (1157)
Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh (1158)
Bạc tình nổi tiếng lầu xanh (1159)
Một tay chôn biết mấy cành phù dung (1160)
Đà đao lập sẵn chước dùng (1161)
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay (1162)
Có ba mươi lạng trao tay (1163)
Không dưng chi có chuyện này trò kia (1164)
Rồi ra trở mặt tức thì (1165)
Bớt lời liệu chớ sân si thiệt đời” (1166)
Nàng rằng: “Thề thốt nặng lời (1167)
Có đâu mà lại ra người hiểm sâu (1168)
Còn đương suy trước nghĩ sau (1169)
Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào (1170)
Sở Khanh lên tiếng rêu rao (1171)
“Dọ nghe mới có con nào ở đây (1172)
Phao cho quyến gió rủ mây (1173)
Hãy xem có biết mặt mày là ai” (1174)
Nàng rằng: “Thôi thế thì thôi (1175)
Rằng không thì cũng vâng lời rằng không” (1176)
Sở Khanh quát mắng đùng đùng (1177)
Bước vào vừa rắp thị hùng ra tay (1178)
Nàng rằng: “Trời nhé có hay (1179)
Quyến anh rủ yến sự này tại ai (1180)
Đem người đẩy xuống giếng thơi (1181)
Nói lời rồi lại ăn lời được ngay (1182)
Còn tiên tích việt ở tay (1183)
Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai” (1184)
Lời ngay đông mặt trong ngoài (1185)
Kẻ chê bất nghĩa người cười vô lương (1186)
Phụ tình án đã rõ ràng (1187)
Dơ tuồng nghỉ mới kiếm đường tháo lui (1188)
Buồng riêng riêng những sụt sùi (1189)
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân (1190)
“Tiếc thay trong giá trắng ngần (1191)
Đến phong trần cũng phong trần như ai (1192)
Tẻ vui cũng một kiếp người (1193)
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru (1194)
Kiếp xưa đã vụng đường tu (1195)
Kiếp nay chẳng kẻo đền bù mới xuôi (1196)
Dẫu sao bình đã lỡ rơi (1197)
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong”. (1198)
25 – Tú Bà Dạy Nghề
Vừa tuần nguyệt rạng gương trong (1199)
Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò: (1200)
“Nghề chơi cũng lắm công phu (1201)
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều (1202)
Nàng rằng: “Mây gió dập dìu (1203)
Liều thân thì cũng phải liều thế thôi (1204)
Mụ rằng: “Ai cũng như ai (1205)
Người ta ai mất tiền hoài đến đây (1206)
Ở trong còn lắm điều hay (1207)
Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung (1208)
Này con thuộc lấy làm lòng (1209)
Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề (1210)
Chơi cho liễu chán hoa chê (1211)
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời (1212)
Khi khóe hạnh khi nét ngài (1213)
Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa (1214)
Đều là nghề nghiệp trong nhà (1215)
Đủ ngần ấy nết mới là người soi” (1216)
Gót đầu vâng dạy mấy lời (1217)
Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng (1218)
Những nghe nói đã thẹn thùng (1219)
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe (1220)
Tủi mình cửa các buồng khuê (1221)
Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay (1222)
Khéo là mặt dạn mày dày (1223)
Kiếp người đã đến thế này thì thôi (1224)
Thương thay thân phận lạc loài (1225)
Dẫu sao cũng ở tay người biết sao (1226)
Lầu xanh mới rủ trướng đào (1227)
Càng treo giá ngọc càng cao phẩm người (1228)
Biết bao bướm lả ong lơi (1229)
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm (1230)
Dập dìu lá gió cành chim (1231)
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh (1232)
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh (1233)
Giật mình mình lại thương mình xót xa (1234)
Khi sao phong gấm rủ là (1235)
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường (1236)
Mặt sao dày gió dạn sương (1237)
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân (1238)
Mặc người mưa Sở mây Tần (1239)
Những mình nào biết có xuân là gì (1240)
Đòi phen gió tựa hoa kề (1241)
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu (1242)
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu (1243)
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (1244)
Đôi phen nét vẽ câu thơ (1245)
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa (1246)
Vui là vui gượng kẻo là (1247)
Ai tri âm đó mặn mà với ai (1248)
Thờ ơ gió trúc mưa mai (1249)
Ngẩn ngơ trăm nỗi dùi mài một thân (1250)
Ôm lòng đòi đoạn xa gần (1251)
Chẳng vò mà rối chẳng dần mà đau (1252)
Nhớ ơn chín chữ cao sâu (1253)
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà (1254)
Dặm nghìn nước thẳm non xa (1255)
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này (1256)
Sân hòe đôi chút thơ ngây (1257)
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình (1258)
Nhớ lời nguyện ước ba sinh (1259)
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai (1260)
Khi về hỏi liễu Chương Đài (1261)
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay (1262)
Tình sâu mong trả nghĩa dày (1263)
Hoa kia đã chắp cây này cho chưa (1264)
Mối tình đòi đoạn vò tơ (1265)
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài (1266)
Song sa vò võ phương trời (1267)
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng (1268)
Lần lần thỏ bạc ác vàng (1269)
Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn (1270)
Đã cho lấy chữ hồng nhan (1271)
Làm cho cho hại cho tàn cho cân (1272)
Đã đày vào kiếp phong trần (12730)
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi. (1274)
26 – Thúc Sinh Chuộc Kiều
Khách du bỗng có một người (1275)
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương (1276)
Vốn người huyện Tích châu Thường (1277)
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri (1278)
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi (1279)
Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào (1280)
Trướng tô giáp mặt hoa đào (1281)
Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng ưa (1282)
Hải đường mơn mởn cành tơ (1283)
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng (1284)
Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng (1285)
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng (1286)
Lạ gì thanh khí lẽ hằng (1287)
Một dây một buộc ai giằng cho ra (1288)
Sớm đào tối mận lân la (1289)
Trước còn trăng gió sau ra đá vàng (1290)
Dịp đâu may mắn lạ dường (1291)
Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê (1292)
Sinh càng một tỉnh mười mê (1293)
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân (1294)
Khi gió gác khi trăng sân (1295)
Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ (1296)
Khi hương sớm khi trà trưa (1297)
Bàn vây điểm nước đường tơ hòa đàn (1298)
Miệt mài trong cuộc truy hoan (1299)
Càng quen thuộc nết càng dan díu tình (1300)
Lạ cho cái sóng khuynh thành (1301)
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi (1302)
Thúc Sinh quen nết bốc rời (1303)
Trăm nghìn đổ một trận cười như không (1304)
Mụ càng tô lục chuốt hồng (1305)
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê (1306)
Dưới trăng quyên đã gọi hè (1307)
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông (1308)
Buồng the phải buổi thong dong (1309)
Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa (1310)
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà (1311)
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (1312)
Sinh càng tỏ nét càng khen (1313)
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường (1314)
Nàng rằng: “Vâng biết lòng chàng (1315)
Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu (1316)
Hay hèn lẽ cũng nối điêu (1317)
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang (1318)
Lòng còn gửi áng mây vàng (1319)
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay” (1320)
Rằng: “Sao nói lạ lùng thay (1321)
Cành kia chẳng phải cội này mà ra” (1322)
Nàng càng ủ dột thu ba (1323)
Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh: (1324)
“Thiếp như hoa đã lìa cành (1325)
Chàng như con bướm liệng vành mà chơi (1326)
Chúa xuân đành đã có nơi (1327)
Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi” (1328)
Sinh rằng: “Từ thuở tương tri (1329)
Tấm riêng riêng những nặng vì nước non (1330)
Trăm năm tính cuộc vuông tròn (1331)
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông” (1332)
Nàng rằng: “Muôn đội ơn lòng (1333)
Chút e bên thú bên tòng dễ đâu (1334)
Bình Khang nấn ná bấy lâu (1335)
Yêu hoa yêu được một màu điểm trang (1336)
Rồi ra lạt phấn phai hương (1337)
Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng? (1338)
Vả trong thềm quế cung trăng (1339)
Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong (1340)
Bấy lâu khăng khít dải đồng (1341)
Thêm người người cũng chia lòng riêng tây (1342)
Vẻ chi chút phận bèo mây (1343)
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi (1344)
Trăm điều ngang ngửa vì tôi (1345)
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho (1346)
Như chàng có vững tay co (1347)
Mười phần cũng đắp điếm cho một vài (1348)
Thế trong dù lớn hơn ngoài (1349)
Trước hàm sư sử gửi người đằng la (1350)
Cúi đầu luồn xuống mái nhà (1351)
Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng (1352)
Ở trên còn có nhà thung (1353)
Lượng trên trông xuống biết lòng có thương? (1354)
Sá chi liễu ngõ hoa tường (1355)
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh (1356)
Lại càng dơ dáng dại hình (1357)
Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng (1358)
Thương sao cho vẹn thì thương (1359)
Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng” (1360)
Sinh rằng: “Hay nói đè chừng (1361)
Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao (1362)
Đường xa chớ ngại Ngô Lào (1363)
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta (1364)
Đã gần chi có điều xa (1365)
Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều” (1366)
Cùng nhau căn vặn đến điều (1367)
Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời (1368)
Nỉ non đêm ngắn tình dài (1369)
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương (1370)
Mượn điều trúc viện thừa lương (1371)
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi (1372)
Chiến hòa sắp sẵn hai bài (1373)
Cậy tay thầy thợ mượn người dò la (1374)
Bắn tin đến mặt Tú Bà (1375)
Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao (1376)
Rõ ràng của dẫn tay trao (1377)
Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công (1378)
Công tư hai lẽ đều xong (1379)
Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai (1380)
Một nhà sum họp trúc mai (1381)
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông (1382)
Hương càng đượm lửa càng nồng (1383)
Càng xuê vẻ ngọc càng lồng màu sen. (1384)
27 – Ra Trước Cửa Công
Nửa năm hơi tiếng người quen (1385)
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng (1386)
Giậu thu vừa nảy giò sương (1387)
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi (1388)
Phong lôi nổi trận bời bời (1389)
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia (1390)
Quyết nghe biện bạch một bề (1391)
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh (1392)
Thấy lời nghiêm huấn rành rành (1393)
Đánh liều Sinh mới lấy tình nài kêu (1394)
Rằng: “Con biết tội đã nhiều (1395)
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam (1396)
Trót vì tay đã nhúng chàm (1397)
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây (1398)
Cùng nhau vả tiếng một ngày (1399)
Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành (1400)
Lượng trên quyết chẳng thương tình (1401)
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi” (1402)
Thấy lời sắt đá tri tri (1403)
Sốt gan ông mới cáo quỳ cửa công (1404)
Đất bằng nổi sóng đùng đùng (1405)
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra (1406)
Cùng nhau thẹo gót sai nha (1407)
Song song vào trước sân hoa lạy quỳ (1408)
Trông lên mặt sắt đen sì (1409)
Lập nghiêm trước hãy ra uy nặng lời: (1410)
“Gã kia dại nết chơi bời (1411)
Mà con người thế là người đong đưa (1412)
Tuồng chi hoa thải hương thừa (1413)
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen (1414)
Suy trong tình trạng nguyên đơn (1415)
Bề nào thì cũng chưa yên bề nào (1416)
Phép công chiếu án luận vào (1417)
Có hai đường ấy muốn sao mặc mình (1418)
Một là cứ phép gia hình (1419)
Một là lại cứ lầu xanh phó về” (1420)
Nàng rằng: “Đã quyết một bề (1421)
Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần (1422)
Đục trong thân cũng là thân (1423)
Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình” (1424)
Dạy rằng: “Cứ phép gia hình” (1425)
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn (1426)
Phận đành chi dám kêu oan (1427)
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày (1428)
Một sân lầm cát đã đầy (1429)
Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương (1430)
Nghĩ tình chàng Thúc mà thương (1431)
Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa (1432)
Khóc rằng: “Oan khốc vì ta (1433)
Có nghe mình trước chẳng đà lụy sau (1434)
Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu (1435)
Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai” (1436)
Phủ đường nghe thoảng vào tai (1437)
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây (1438)
Sụt sùi chàng mới thưa ngay (1439)
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân: (1440)
“Nàng đà tính hết xa gần (1441)
Từ xưa nàng đã biết thân có rày (1442)
Tại tôi hứng lấy một tay (1443)
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi” (1444)
Nghe lời nói cũng thương lời (1445)
Dẹp uy mới dạy mở bài giải vi (1446)
Rằng: “Như hẳn có thế thì (1447)
Trăng hoa song cũng thị phi biết điều” (1448)
Sinh rằng: “Chút phận bọt bèo (1449)
Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên” (1450)
Cười rằng: “Đã thế thì nên (1451)
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề” (1452)
Nàng vâng cất bút tay đề (1453)
Tiên hoa trình trước án phê xem tường (1454)
Khen rằng: “Giá lướt Thịnh Đường (1455)
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân (1456)
Thực là tài tử giai nhân (1457)
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn (1458)
Thôi đừng rước dữ cưu hờn (1459)
Làm chi lỡ nhịp cho đàn ngang cung (1460)
Đã đưa đến trước cửa công (1461)
Ngoài thì là lý song trong là tình (1462)
Dâu con trong đạo gia đình (1463)
Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong” (1464)
Kíp truyền sắm sửa lễ công (1465)
Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao (1466)
Bày hàng cổ xúy xôn xao (1467)
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi (1468)
Thương vì hạnh trọng vì tài (1469)
Thúc Ông thôi cũng dẹp lời phong ba (1470)
Huệ lan sực nức một nhà (1471)
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa. (1472)
28 – Tiễn Thúc Sinh Về Thăm Nhà
Mảng vui rượu sớm cờ trưa (1473)
Đào đà phai thắm sen vừa nảy xanh (1474)
Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh (1475)
E tình nàng mới bày tình riêng chung: (1476)
“Phận bồ từ vẹn chữ tòng (1477)
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên (1478)
Tin nhà ngày một vắng tin (1479)
Mặn tình cát lũy lạt tình tao khang (1480)
Nghĩ ra thật cũng nên đường (1481)
Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta (1482)
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà (1483)
Ở vào khuôn phép nói ra mối rường (1484)
E thay những dạ phi thường (1485)
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông (1486)
Mà ta suốt một năm ròng (1487)
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào (1488)
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao (1489)
Hoặc là trong có làm sao chăng là (1490)
Xin chàng liệu kíp lại nhà (1491)
Trước người đẹp ý sau ta biết tình (1492)
Đêm ngày giữ mực giấu quanh (1493)
Rày lần mai lữa như hình chưa thông” (1494)
Nghe lời khuyên nhủ thong dong (1495)
Đành lòng Sinh mới quyết lòng hồi trang (1496)
Rạng ra gửi đến xuân đường (1497)
Thúc Ông cũng vội giục chàng ninh gia (1498)
Tiễn đưa một chén quan hà (1499)
Xuân đình thoắt đã dọn ra Cao đình (1500)
Sông Tần một dải xanh xanh (1501)
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan (1502)
Cầm tay dài ngắn thở than (1503)
Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời (1504)
Nàng rằng: “Non nước xa khơi (1505)
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm (1506)
Dễ lòa yếm thắm trôn kim (1507)
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng (1508)
Đôi ta chút nghĩa đèo bồng (1509)
Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh (1510)
Dù khi mưa gió bất bình (1511)
Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi (1512)
Hơn điều giấu ngược giấu xuôi (1513)
Lại mang những việc tày trời đến sau (1514)
Thương nhau xin nhớ lời nhau (1515)
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy (1516)
Chén đưa nhớ bữa hôm nay (1517)
Chén mừng xin đợi ngày này năm sau” (1518)
Người lên ngựa kẻ chia bào (1519)
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san (1520)
Dặm hồng bụi cuốn chinh an (1521)
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh (1522)
Người về chiếc bóng năm canh (1523)
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi (1524)
Vầng trăng ai xẻ làm đôi (1525)
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường. (1526)
29 – Hoạn Thư Đón Thúc Sinh
Kể chi những nỗi dọc đường (1527)
Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà (1528)
Vốn dòng họ Hoạn danh gia (1529)
Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư (1530)
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa (1531)
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày (1532)
Ở ăn thì nết cũng hay (1533)
Nói điều dàm buộc thì tay cũng già (1534)
Từ nghe vườn mới thêm hoa (1535)
Miệng người đã lắm tin nhà thì không (1536)
Lửa tâm càng dập càng nồng (1537)
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa: (1538)
“Ví bằng thú thật cùng ta (1539)
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên (1540)
Dại chi chẳng giữ lấy nền (1541)
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình (1542)
Lại còn bưng bít giấu quanh (1543)
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười (1544)
Tính rằng cách mặt khuất lời (1545)
Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho (1546)
Lo gì việc ấy mà lo (1547)
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu (1548)
Làm cho nhìn chẳng được nhau (1549)
Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên (1550)
Làm cho trông thấy nhãn tiền (1551)
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay” (1552)
Nỗi lòng kín chẳng ai hay (1553)
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài (1554)
Tuần sau bỗng thấy hai người (1555)
Mách tin ý cũng liệu bài tâng công (1556)
Tiểu thư nổi giận đùng đùng: (1557)
“Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi (1558)
Chồng tao nào phải như ai (1559)
Điều này hẳn miệng những người thị phi” (1560)
Vội vàng xuống lệnh ra uy (1561)
Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng (1562)
Trong ngoài kín mít như bưng (1563)
Nào ai còn dám nói năng một lời (1564)
Buồng đào khuya sớm thảnh thơi (1565)
Ra vào một mực nói cười như không (1566)
Đêm ngày lòng những dặn lòng (1567)
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên (1568)
Lời tan hợp nỗi hàn huyên (1569)
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng (1570)
Tẩy trần vui chén thong dong (1571)
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra (1572)
Chàng về xem ý tứ nhà (1573)
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày (1574)
Mấy phen cười nói tỉnh say (1575)
Tóc tơ bất động mảy may sự tình (1576)
Nghĩ đà bưng kín miệng bình (1577)
Nào ai có khảo mà mình lại xưng (1578)
Những là e ấp dùng dằng (1579)
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi (1580)
Có khi vui chuyện mua cười (1581)
Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu (1582)
Rằng: “Trong ngọc đá vàng thau (1583)
Mười phân ta đã tin nhau cả mười (1584)
Khen cho những miệng dông dài (1585)
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia (1586)
Thiếp dù vụng chẳng hay suy (1587)
Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười” (1588)
Thấy lời thủng thỉnh như chơi (1589)
Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn (1590)
Những là cười phấn cợt son (1591)
Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai (1592)
Thú quê thuần vược vén mùi (1593)
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô (1594)
Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ (1595)
Một màu quan tái mấy mùa gió trăng (1596)
Tình riêng chưa dám rỉ răng (1597)
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua: (1598)
“Cách năm mây bạc xa xa (1599)
Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn” (1600)
Được lời như mở tấc son (1601)
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người (1602)
Long lanh đáy nước in trời (1603)
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng (1604)
Roi câu vừa gióng dặm trường (1605)
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh (1606)
Thưa nhà huyên hết mọi tình (1607)
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen (1608)
Nghĩ rằng: “Giận ghẻ hờn ghen (1609)
Xấu chàng mà có ai khen chi mình (1610)
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh (1611)
Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày (1612)
Lâm Tri đường bộ tháng chầy (1613)
Mà đường hải đạo sang ngay thì gần (1614)
Dọn thuyền lựa mặt gia nhân (1615)
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về (1616)
Làm cho cho mệt cho mê (1617)
Làm cho đau đớn ê chề cho coi (1618)
Trước cho bõ ghét những người (1619)
Sao cho để một trò cười về sau” (1620)
Phu nhân khen chước rất màu (1621)
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay (1622)
Sửa sang buồm gió lèo mây (1623)
Khuyển Ưng lại chọn một bầy côn quang (1624)
Dặn dò hết các mọi đường (1625)
Thuận phong một lá vượt sang biển Tề. (1626)
30 – Bị Bắt Cóc – Thúc Sinh Gọi Hồn
Nàng từ chiếc bóng song the (1627)
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu (1628)
Bóng dâu đã xế ngang đầu (1629)
Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi (1630)
Tóc thề đã chấm ngang vai (1631)
Nào lời non nước nào lời sắt son (1632)
Sắn bìm chút phận cỏn con (1633)
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? (1634)
Thân sao nhiều nỗi bất bằng (1635)
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao (1636)
Đêm thu gió lọt song đào (1637)
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời (1638)
Nén hương đến trước Phật đài (1639)
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân (1640)
Dưới hoa dậy lũ ác nhân (1641)
Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra (1642)
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa (1643)
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao (1644)
Thuốc mê đâu đã tưới vào (1645)
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì (1646)
Vực ngay lên ngựa tức thì (1647)
Buồng đào viện sách bốn bề lửa dong (1648)
Sẵn thây vô chủ bên sông (1649)
Đem vào để đó lận sòng ai hay (1650)
Tôi đòi phách lạc hồn bay (1651)
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình (1652)
Thúc Ông nhà cũng gần quanh (1653)
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời (1654)
Tớ thầy chạy thẳng đến nơi (1655)
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao (1656)
Gió cao ngọn lửa càng cao (1657)
Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu (1658)
Hớt hơ hớt hải nhìn nhau (1659)
Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng (1660)
Chạy vào chốn cũ phòng hương (1661)
Trong than thấy một đống xương cháy tàn (1662)
Ngay tình ai biết mưu gian (1663)
Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai (1664)
Thúc Ông sùi sụt ngắn dài (1665)
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na (1666)
Di hài nhặt sắp về nhà (1667)
Nào là khâm liệm nào là tang trai (1668)
Lễ thường đã đủ một hai (1669)
Lục trình chàng cũng đến nơi bây giờ (1670)
Bước vào chốn cũ lầu thơ (1671)
Tro than một đống nắng mưa bốn tường (1672)
Sang nhà cha tới trung đường (1673)
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên (1674)
Hỡi ôi nói hết sự duyên (1675)
Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan (1676)
Gieo mình vật vã khóc than: (1677)
“Con người thế ấy thác oan thế này (1678)
Chắc rằng mai trúc lại vầy (1679)
Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau” (1680)
Thương càng nghĩ nghĩ càng đau (1681)
Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây (1682)
Gần miền nghe có một thầy (1683)
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền (1684)
Trên tam đảo dưới cửu tuyền (1685)
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng (1686)
Sắm sanh lễ vật rước sang (1687)
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han (1688)
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn (1689)
Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương (1690)
Trở về minh bạc nói tường (1691)
Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra (1692)
“Người này nặng kiếp oan gia (1693)
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho (1694)
Mệnh cung đang mắc nạn to (1695)
Một năm nữa mới thăm dò được tin (1696)
Hai bên giáp mặt chiền chiền (1697)
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay” (1698)
Nghe lời nói lạ dường này (1699)
Sự nàng đã thế lời thầy dám tin (1700)
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên (1701)
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần (1702)
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân (1703)
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên. (1704)
31 – Ở Nhà Hoạn Bà
Nước trôi hoa rụng đã yên (1705)
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian (1706)
Khuyển Ưng đã đắt mưu gian (1707)
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền (1708)
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền (1709)
Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang (1710)
Giã đò lên trước sảnh đường (1711)
Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công (1712)
Vực nàng tạm xuống môn phòng (1713)
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai (1714)
Hoàng lương nghe tỉnh hồn mai (1715)
Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây (1716)
Bàng hoàng dở tỉnh dở say (1717)
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu (1718)
A hoàn trên dưới giục mau (1719)
Hãi hùng nàng mới theo sau một người (1720)
Ngước trông tòa rộng dãy dài (1721)
“Thiên quan trủng tể” có bài treo trên (1722)
Ban ngày sáp thắp hai bên (1723)
Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà (1724)
Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra (1725)
Sự mình nàng đã cứ mà gửi thưa (1726)
Bất tình nổi trận mây mưa (1727)
Nhiếc rằng: “Những giống bơ thờ quen thân (1728)
Con này chẳng phải thiện nhân (1729)
Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng (1730)
Ra tuồng mèo mả gà đồng (1731)
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào (1732)
Đã đem mình bán cửa tao (1733)
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này (1734)
Nào là gia pháp nọ bay (1735)
Hãy cho ba chục biết tay một lần” (1736)
A hoàn trên dưới dạ rân (1737)
Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào (1738)
Trúc côn ra sức đập vào (1739)
Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng khinh (1740)
Xót thay đào lý một cành (1741)
Một phen mưa gió tan tành một phen (1742)
Hoa nô truyền dạy đổi tên (1743)
Phòng đào dạy ép vào phiên thị tì (1744)
Ra vào theo lũ thanh y (1745)
Dãi dầu tóc rối da chì quản bao (1746)
Quản gia có một mụ nào (1747)
Thấy người thấy nết ra vào mà thương (1748)
Khi chè chén khi thuốc thang (1749)
Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh (1750)
Dạy rằng: “May rủi đã đành (1751)
Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay (1752)
Cũng là oan nghiệp chi đây (1753)
Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng (1754)
Ở đây tai vách mạch rừng (1755)
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi (1756)
Kẻo khi sấm sét bất kỳ (1757)
Con ong cái kiến kêu gì được oan” (1758)
Nàng càng giọt ngọc như chan (1759)
Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây: (1760)
“Phong trần kiếp đã chịu đầy (1761)
Lầm than lại có thứ này bằng hai (1762)
Làm sao bạc chẳng vừa thôi (1763)
Chằng chằng buộc mãi lấy người hồng nhan (1764)
Đã đành túc trái tiền oan (1765)
Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi” (1766)
Những là nương náu qua thì (1767)
Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia (1768)
Mẹ con trò chuyện lân la (1769)
Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời: (1770)
“Tiểu thư dưới trướng thiếu người (1771)
Cho về bên ấy theo đòi lầu trang” (1772)
Lĩnh lời nàng mới theo sang (1773)
Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu (1774)
Sớm khuya khăn mặt lược đầu (1775)
Phận con hầu giữ con hầu dám sai (1776)
Phải đêm êm ả chiều trời (1777)
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày (1778)
Lĩnh lời nàng mới lựa dây (1779)
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người (1780)
Tiểu thư xem cũng thương tài (1781)
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân (1782)
Cửa người đày đọa chút thân (1783)
Sớm năn nỉ bóng khuya ngơ ngẩn lòng (1784)
Lâm Tri chút nghĩa đèo bòng (1785)
Nước non để chữ tương phùng kiếp sau (1786)
Bốn phương mây trắng một màu (1787)
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà (1788)
Lần lần tháng lụn ngày qua (1789)
Nỗi gần nào biết đường xa thế này. (1790)
32 – Hoạn Thư Hành Hạ Kiều
Lâm Tri từ thuở uyên bay (1791)
Phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân (1792)
Mày xanh trăng mới in ngần (1793)
Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa (1794)
Sen tàn cúc lại nở hoa (1795)
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân (1796)
Tìm đâu cho thấy cố nhân (1797)
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương (1798)
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương (1799)
Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê (1800)
Tiểu thư đón cửa dã dề (1801)
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa (1802)
Nhà hương cao cuốn bức là (1803)
Phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng (1804)
Bước ra một bước một dừng (1805)
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa: (1806)
“Phải rằng nắng quáng đèn lòa (1807)
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh (1808)
Bây giờ tình mới rõ tình (1809)
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai (1810)
Chước đâu có chước lạ đời (1811)
Người đâu mà lại có người tinh ma (1812)
Rõ ràng thật lứa đôi ta (1813)
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi (1814)
Bề ngoài thơn thớt nói cười (1815)
Mà trong nham hiểm giết người không dao (1816)
Bây giờ đất thấp trời cao (1817)
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ” (1818)
Càng trông mặt càng ngẩn ngơ (1819)
Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời (1820)
Sợ uy dám chẳng vâng lời (1821)
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều (1822)
Sinh đà phách lạc hồn xiêu” (1823)
“Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây (1824)
Nhân làm sao đến thế này (1825)
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi (1826)
Sợ quen dám hở ra lời (1827)
Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa (1828)
Tiểu thư trông mặt hỏi tra: (1829)
“Mới về có việc chi mà động dong?” (1830)
Sinh rằng: “Hiếu phục vừa xong (1831)
Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên” (1832)
Khen rằng: “Hiếu tử đã nên (1833)
Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu” (1834)
Vợ chồng chén tạc chén thù (1835)
Bắt nàng đứng trực trì hồ hai nơi (1836)
Bắt khoan bắt nhặt đến lời (1837)
Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay (1838)
Sinh càng như dại như ngây (1839)
Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi (1840)
Dửng đi chợt nói chợt cười (1841)
Cáo say chàng đã dạm bài lảng ra (1842)
Tiểu thư vội thét: “Con Hoa! (1843)
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn” (1844)
Sinh càng nát ruột tan hồn (1845)
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay (1846)
Tiểu thư cười nói tỉnh say (1847)
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi (1848)
Rằng: “Hoa nô đủ mọi tài (1849)
Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe” (1850)
Nàng đà tán hoán tê mê (1851)
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn (1852)
Bốn dây như khóc như than (1853)
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng (1854)
Cùng trong một tiếng tơ đồng (1855)
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm (1856)
Giọt châu lã chã khôn cầm (1857)
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương (1858)
Tiểu thư lại nẹt lấy nàng: (1859)
“Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi (1860)
Sao chẳng biết ý tứ gì (1861)
Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi” (1862)
Sinh càng thảm thiết bồi hồi (1863)
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua (1864)
Giọt rồng canh đã điểm ba (1865)
Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm (1866)
Lòng riêng khấp khởi mừng thầm: (1867)
“Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay” (1868)
Sinh thì gan héo ruột đầy (1869)
Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng (1870)
Người vào chung gối loan phòng (1871)
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài (1872)
Bây giờ mới rõ tăm hơi (1873)
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen (1874)
Chước đâu rẽ thúy chia uyên (1875)
Ai ra đường nấy ai nhìn được ai (1876)
Bây giờ một vực một trời (1877)
Hết điều khinh trọng hết lời thị phi (1878)
Nhẹ như bấc nặng như chì (1879)
Gỡ cho ra nợ còn gì là duyên (1880)
Lỡ làng chút phận thuyền quyên (1881)
Bể sâu sóng cả có tuyền được vay (1882)
Một mình âm ỉ đêm chầy (1883)
Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh. (1884)
33 – Đi Tu Ở Quan Âm Các
Sớm khuya hầu hạ đài doanh (1885)
Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra (1886)
Lựa lời nàng mới thưa qua: (1887)
“Phải khi mình lại xót xa nỗi mình” (1888)
Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh: (1889)
‘Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao” (1890)
Sinh đà rát ruột như bào (1891)
Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang (1892)
Những e lại lụy đến nàng (1893)
Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra (1894)
Cúi đầu quỳ trước sân hoa (1895)
Thân cung nàng mới thảo qua một tờ (1896)
Diện tiền trình với tiểu thư (1897)
Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình (1898)
Liền tay trao lại Thúc Sinh (1899)
Rằng: “Tài nên trọng mà tình nên thương (1900)
Ví chăng có số giàu sang (1901)
Giá mà dẫu đúc nhà vàng cũng nên (1902)
Bể trần chìm nổi thuyền quyên (1903)
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời” (1904)
Sinh rằng: “Thật có như lời (1905)
Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay (1906)
Nghìn xưa âu cũng thế này (1907)
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa” (1908)
Tiểu thư rằng: “Ý trong tờ (1909)
Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không (1910)
Thôi thì thôi cũng chiều lòng (1911)
Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra (1912)
Sẵn Quan Âm các vườn ta (1913)
Có cây trăm thước có hoa bốn mùa (1914)
Có cổ thụ có sơn hồ (1915)
Cho nàng ra đó giữ chùa tụng kinh” (1916)
Tưng tưng trời mới bình minh (1917)
Hương hoa ngũ cúng sắm sanh lễ thường (1918)
Đưa chàng đến trước Phật đường (1919)
Tam quy ngũ giới cho nàng xuất gia (1920)
Áo xanh đổi lấy cà sa (1921)
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền (1922)
Sớm khuya tính đủ dầu đèn (1923)
Xuân Thu cắt sẵn hai tên hương trà. (1924)
34 – Tình Tự Với Thúc Sinh – Hoạn Thư Bắt Gặp
Nàng từ lánh dấu vườn hoa (1925)
Dường gần rừng tía dường xa bụi hồng (1926)
Nhân duyên đâu lại còn mong (1927)
Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi (1928)
Phật tiền thảm lấp sầu vùi (1929)
Ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương (1930)
Cho hay giọt nước cành dương (1931)
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên (1932)
Sồng nâu từ trở màu thiền (1933)
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu (1934)
Quan phòng then nhặt lưới mau (1935)
Nói lời trước mặt rơi châu vắng người (1936)
Gác kinh viện sách đôi nơi (1937)
Trong gang tấc lại gấp mười quan san (1938)
Những là ngậm thở ngùi than (1939)
Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà (1940)
Thừa cơ Sinh mới lẻn ra (1941)
Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng (1942)
Sụt sùi giở nỗi đoạn trường (1943)
Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh: (1944)
“Đã cam chịu bạc với tình (1945)
Chúa xuân để tội một mình cho hoa (1946)
Thấp cơ thua trí đàn bà (1947)
Trông vào đau ruột nói ra ngại lời (1948)
Vì ta cho lụy đến người (1949)
Cát lầm ngọc trắng thiệt đời xuân xanh (1950)
Quản chi trên các dưới duềnh (1951)
Cũng toan sống thác với tình cho xong (1952)
Tông đường chút chửa cam lòng (1953)
Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai (1954)
Thẹn mình đá nát vàng phai (1955)
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao” (1956)
Nàng rằng: “Chiếc bách sóng đào (1957)
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may (1958)
Chút thân quằn quại vũng lầy (1959)
Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao (1960)
Cũng liều một hạt mưa rào (1961)
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay (1962)
Chút vì cầm đã bén dây (1963)
Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta (1964)
Liệu bài mở cửa cho ra (1965)
Ấy là tình nặng ấy là ân sâu” (1966)
Sinh rằng: “Riêng tưởng bấy lâu (1967)
Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường (1968)
Nữa khi giông tố phũ phàng (1969)
Thiệt riêng đấy cũng lại càng cực đây (1970)
Liệu mà cao chạy xa bay (1971)
Ái ân ta có ngần này mà thôi (1972)
Bây giờ kẻ ngược người xuôi (1973)
Biết bao giờ lại nối lời nước non (1974)
Dẫu rằng sông cạn đá mòn (1975)
Con tằm đến chết cũng còn vương tơ” (1976)
Cùng nhau kể lể sau xưa (1977)
Nói rồi lại nói lời chưa hết lời (1978)
Mặt trông tay chẳng nỡ rời (1979)
Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa (1980)
Nhịn ngừng nuốt tủi đứng ra (1981)
Tiểu thư đâu đã gót hoa bước vào (1982)
Cười cười nói nói ngọt ngào (1983)
Hỏi: “Chàng mới ở chốn nào lại chơi?” (1984)
Dối quanh Sinh mới liệu lời: (1985)
“Tìm hoa quá bước xem người viết kinh” (1986)
Khen rằng: “Bút pháp đã tinh (1987)
So vào với thiếp Lan Đình nào thua (1988)
Tiếc thay lưu lạc giang hồ (1989)
Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài” (1990)
Thiền trà cạn nước hồng mai (1991)
Thong dong nối gót thư trai cùng về (1992)
Nàng càng e lệ ủ ê (1993)
Rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau (1994)
Hoa rằng: “Bà đến đã lâu (1995)
Rón chân đứng nép độ đâu nửa giờ (1996)
Rành rành kẽ tóc chân tơ (1997)
Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường (1998)
Bao nhiêu đoạn khổ tình thương (1999)
Nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than (2000)
Ngăn tôi đứng lại một bên (2001)
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu” (2002)
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu: (2003)
“Đàn bà thế ấy thấy âu một người (2004)
Ấy mới gan ấy mới tài (2005)
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời (2006)
Người đâu sâu sắc nước đời (2007)
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay (2008)
Thực tang bắt được dường này (2009)
Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng (2010)
Thế mà im chẳng đãi đằng (2011)
Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng (2012)
Giận dầu ra dạ thế thường (2013)
Cười này mới thực khôn lường hiểm sâu (2014)
Thân ta ta phải lo âu (2015)
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này (2016)
Ví chăng chắp cánh cao bay (2017)
Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa (2018)
Phận bèo bao quản nước sa (2019)
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh (2020)
Chỉn e quê khách một mình (2021)
Tay không chưa dễ tìm vành ấm no” (2022)
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co (2023)
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân (2024)
Bên mình giắt để hộ thân (2025)
Lần nghe canh đã một phần trống ba (2026)
Cất mình qua ngọn tường họa (2027)
Lần đường theo bóng trăng tà về tâỵ. (2028)
35 – Ở Chiêu Ẩn Am
Mịt mù dặm cát đồi cây (2029)
Tiếng gà điếm cỏ dấu giày cầu sương (2030)
Canh khuya thân gái dặm trường (2031)
Phần e đường sá phần thương dãi dầu (2032)
Trời đông vừa rạng ngàn dâu (2033)
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà (2034)
Chùa đâu trông thấy nẻo xa (2035)
Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài (2036)
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài (2037)
Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong (2038)
Thấy màu ăn mặc nâu sồng (2039)
Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương (2040)
Gạn gùng ngành ngọn cho tường (2041)
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh: (2042)
“Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh (2043)
Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu (2044)
Bản sư rồi cũng đến sau (2045)
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh” (2046)
Rày vâng diện hiến rành rành (2047)
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra (2048)
Xem qua sư mới dạy qua: (2049)
“Phải ni Hằng Thủy là ta hậu tình (2050)
Chỉn e đường sá một mình (2051)
Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày” (2052)
Gửi thân được chốn am mây (2053)
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong (2054)
Kệ kinh câu cũ thuộc lòng (2055)
Hương đèn việc cũ trai phòng quen tay (2056)
Sớm khuya lá bối phướn mây (2057)
Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện sương (2058)
Thấy nàng thông tuệ khác thường (2059)
Sư càng nể mặt nàng càng vững chân. (2060)
36 – Bị Họ Bạc Lừa
Cửa thiền vừa tiết cuối xuân (2061)
Bóng hoa đầy đất vẻ ngân vang trời (2062)
Gió quang mây tạnh thảnh thơi (2063)
Có người đàn việt lên chơi cửa già (2064)
Giở đồ chuông khánh xem qua (2065)
Khen rằng: “Khéo giống của nhà Hoạn nương” (2066)
Giác Duyên thực ý lo lường (2067)
Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau (2068)
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu màu (2069)
Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay: (2070)
“Bây giờ sự đã dường này (2071)
Phận hèn dù rủi dù may tại người” (2072)
Giác Duyên nghe nói rụng rời (2073)
Nửa thương nửa sợ bồi hồi chẳng xong (2074)
Rỉ nghe nàng, mới giãi lòng: (2075)
“Ở đây cửa Phật là không hẹp gì (2076)
E chăng những sự bất kỳ (2077)
Để nàng cho đến thế thì cũng thương (2078)
Lánh xa trước liệu tìm đường (2079)
Ngồi chờ nước đến nên dường còn quê” (2080)
Có nhà họ Bạc bên kia (2081)
Am mây quen lối đi về dầu hương (2082)
Nhắn sang dặn hỏi mọi đường (2083)
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân (2084)
Những mừng được chốn an thân (2085)
Vội vàng nào kịp tính gần tính xa (2086)
Nào ngờ cùng tổ bợm già (2087)
Bạc Bà học với Tú bà đồng môn (2088)
Thấy nàng lạt phấn nhàm son (2089)
Mừng thầm được mối bán buôn có lời (2090)
Hư không đặt bỏ nên lời (2091)
Nàng đà lớn sợ rụng rời lắm phen (2092)
Mụ càng xui đuổi cho liền (2093)
Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần (2094)
Rằng: “Nàng muôn dặm một thân (2095)
Lại mang lấy tiếng dữ gần lành xa (2096)
Khéo oan gia của phá gia (2097)
Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây (2098)
Kip toan kiếm chốn xe dây (2099)
Không dưng chưa dễ mà bay đường trời (2100)
Nơi gần thì chẳng tiện nơi (2101)
Nơi xa thì chẳng có người nào xa (2102)
Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà (2103)
Cũng trong thân thích ruột rà chẳng ai (2104)
Cửa hàng buôn bán châu Thai (2105)
Thật thà có một đơn sai chẳng hề (2106)
Thế nào nàng cũng phải nghe (2107)
Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai (2108)
Bấy giờ ai lại biết ai (2109)
Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh (2110)
Nàng dù quyết chẳng thuận tình (2111)
Trái trời nẻo trước lụy mình đến sau” (2112)
Nàng càng mặt ủ mày chau (2113)
Càng nghe mụ nói càng đau như dần (2114)
Nghĩ mình túng đất sảy chân (2115)
Thế cùng nàng mới xa gần thở than: (2116)
“Thiếp như con én lạc đàn (2117)
Phải cung rày đã sợ làn cây cong (2118)
Cùng đường dù tính chữ tòng (2119)
Biết người biết mặt biết lòng làm sao (2120)
Nữa khi muôn một thế nào (2121)
Bán hùm buôn quỷ chắc vào lưng đâu (2122)
Dù ai lòng có sở cầu (2123)
Tâm minh xin quyết với nhau một lời (2124)
Chứng minh có đất có trời (2125)
Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì” (2126)
Được lời mụ mới ra đi (2127)
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh (2128)
Một nhà dọn dẹp linh đình (2129)
Quét sân đặt trác rửa bình thắp nhang (2130)
Bạc Sinh quỳ xuống vội vàng (2131)
Quá lời nguyện hết Thành hoàng Thổ công (2132)
Trước sân lòng đã giãi lòng (2133)
Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên (2134)
Thành thân mới rước xuống thuyền (2135)
Thuận buồm một lá xuôi miền châu Thai. (2136)
37 – Vào Lầu Xanh Lần II
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi (2137)
Bạc Sinh lên trước tìm nơi mọi ngày (2138)
Cũng nhà hàng viện xưa nay (2139)
Cũng phường bán thịt cũng tay buôn người (2140)
Xem người định giá vừa rồi (2141)
Mối hàng một đã ra mười thì buông (2142)
Mướn người thuê kiệu rước nàng (2143)
Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa (2144)
Kiệu hoa đặt trước thềm hoa (2145)
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng (2146)
Đưa nàng vào lạy gia đường (2147)
Cũng thần mày trắng cũng phường lầu xanh (2148)
Thoắt trông nàng đã biết tình (2149)
Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao (2150)
Chém cha cái số hoa đào (2151)
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi (2152)
Nghĩ đời mà ngán cho đời (2153)
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen (2154)
Tiếc thay nước đã đánh phèn (2155)
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần (2156)
Hồng quân với khách hồng quần (2157)
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha (2158)
Lỡ từ lạc bước bước ra (2159)
Cái thân liệu những từ nhà liệu đi (2160)
Đầu xanh đã tội tình chi (2161)
Má hồng đền quá nửa thì chưa thôi (2162)
Biết thân chạy chẳng khỏi trời (2163)
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. (2164)
38 – Gặp Từ Hải
Lần thâu gió mát trăng thanh (2165)
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi (2166)
Râu hùm hàm én mày ngài (2167)
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao (2168)
Đường đường một đấng anh hào (2169)
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài (2170)
Đội trời đạp đất ở đời (2171)
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông (2172)
Giang hồ quen thú vẫy vùng (2173)
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo (2174)
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều (2175)
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng (2176)
Thiếp danh đưa đến lầu hồng (2177)
Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa (2178)
Từ rằng: “Tâm phúc tương cờ (2179)
Phải người trăng gió vật vờ hay sao (2180)
Bấy lâu nghe tiếng má đào (2181)
Mắt xanh chẳng để ai vào có không (2182)
Một đời được mấy anh hùng (2183)
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi” (2184)
Nàng rằng: “Người dạy quá lời (2185)
Thân này còn dám xem ai làm thường (2186)
Chút riêng chọn đá thử vàng (2187)
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu (2188)
Còn như vào trước ra sau (2189)
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình” (2190)
Từ rằng: “Lời nói hữu tình (2191)
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân (2192)
Lại đây xem lại cho gần (2193)
Phỏng tin được một vài phần hay không?” (2194)
Thưa rằng: “Lượng cả bao dung (2195)
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen (2196)
Rộng thương cỏ nội hoa hèn (2197)
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau” (2198)
Nghe lời vừa ý gật đầu (2199)
Cười rằng: “Tri kỷ trước sau mấy người (2200)
Khen cho con mắt tinh đời (2201)
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già (2202)
Một lời đã biết đến ta (2203)
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau” (2204)
Hai bên ý hợp tâm đầu (2205)
Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân (2206)
Ngỏ lời nói với băng nhân (2207)
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn (2208)
Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn (2209)
Đặt giường thất bảo vây màn bát tiên (2210)
Trai anh hùng gái thuyền quyên (2211)
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng. (2212)
39 – Từ Hải Ra Đi
Nửa năm hương lửa đương nồng (2213)
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương (2214)
Trông vời trời bể mênh mang (2215)
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong (2216)
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng (2217)
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi (2218)
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri (2219)
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình (2220)
Bao giờ mười vạn tinh binh (2221)
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường (2222)
Làm cho rõ mặt phi thường (2223)
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia (2224)
Bằng nay bốn bể không nhà (2225)
Theo càng thêm bận biết là đi đâu (2226)
Đành lòng chờ đó ít lâu (2227)
Chầy chăng là một năm sau vội gì” (2228)
Quyết lời dứt áo ra đi (2229)
Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi (2230)
Nàng thì chiếc bóng song mai (2231)
Đêm thâu đằng đẵng ngày cài then mây (2232)
Sân rêu chẳng vẽ dấu giày (2233)
Cỏ cao hơn thước liễu gầy vài phân (2234)
Đoái trông muôn dặm tử phần (2235)
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa (2236)
Xót thay huyên cỗi xuân già (2237)
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi? (2238)
Chốc đà mười mấy năm trời (2239)
Còn ra khi đã da mồi tóc sương (2240)
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng (2241)
Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng (2242)
Duyên em dù nối tơ hồng (2243)
May ra khi đã tay bồng tay mang (2244)
Tấc lòng cố quốc tha hương (2245)
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời (2246)
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời (2247)
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm. (2248)
40 – Từ Hải Về Đón Kiều
Đêm ngày luống những âm thầm (2249)
Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương (2250)
Ngất trời sát khí mơ màng (2251)
Đầy sông kình ngạc chật đường giáp binh (2252)
Người quen thuộc kẻ chung quanh (2253)
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi (2254)
Nàng rằng: “Trước đã hẹn lời (2255)
Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa!” (2256)
Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ (2257)
Mé ngoài đã thấy bóng cờ tiếng la (2258)
Giáp binh kéo đến quanh nhà (2259)
Đồng thanh cùng dạ: “Nào là phu nhân?” (2260)
Hai bên mười vị tướng quân (2261)
Đặt gươm cởi giáp trước sân khấu đầu (2262)
Cung nga thể nữ nối sau (2263)
Rằng: “Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy (2264)
Sẵn sàng phượng liễn loan nghi (2265)
Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng (2266)
Dựng cờ nổi trống lên đường (2267)
Trúc tơ nổi trước đào vàng kéo sau (2268)
Hỏa bài tiền lộ ruổi mau (2269)
Nam đình nghe động trống chầu đại doanh (2270)
Kéo cờ lũy phát súng thành (2271)
Từ Công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài (2272)
Rỡ mình lạ vẻ cân đai (2273)
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa (2274)
Cười rằng: “Cá nước duyên ưa (2275)
Nhớ lời nói những bao giờ hay không (2276)
Anh hùng mới biết anh hùng (2277)
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?” (2278)
Nàng rằng: “Chút phận ngây thơ (2279)
Cũng may dây cát được nhờ bóng cây (2280)
Đến bây giờ mới thấy đây (2281)
Mà lòng đã chắc những ngày một hai” (2282)
Cùng nhau trông mặt cả cười (2283)
Dan tay về chốn trướng mai tự tình (2284)
Tiệc bày thưởng tướng khao binh (2285)
Om thòm trống trận rập rình nhạc quân (22806)
Vinh hoa bõ lúc phong trần (2287)
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày. (2288)
41 – Đền Ơn Báo Oán
Trong quân có lúc vui vầy (2289)
Thong dong mới kể sự ngày hàn vi: (2290)
“Khi Vô Tích khi Lâm Tri (2291)
Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương (2292)
Tấm thân rày đã nhẹ nhàng (2293)
Chút còn ân oán đôi đường chưa xong” (2294)
Từ công nghe nói thủy chung (2295)
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang (2296)
Nghiêm quân chọn tướng sẵn sàng (2297)
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao (2298)
Ba quân chỉ ngọn cờ đào (2299)
Đạo ra Vô Tích đạo vào Lâm Tri (2300)
Mấy người phụ bạc xưa kia (2301)
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra (2302)
Lại sai lệnh tiễn truyền qua (2303)
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên (2304)
Mụ quản gia, vãi Giác Duyên (2305)
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời (2306)
Thệ sư kể hết mọi lời (2307)
Lòng lòng cũng giận người người chấp uy (2308)
Đạo trời báo phục chỉn ghê (2309)
Khéo thay một mẻ tóm về đầy nơi (2310)
Quân trung gươm lớn giáo dài (2311)
Vệ trong thị lập cơ ngoài song phi (2312)
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi (2313)
Vác đòng chật đất tinh kỳ rợp sân (2314)
Trướng hùm mở giữa trung quân (2315)
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi (2316)
Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi (2317)
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên (2318)
Từ rằng: “Ân oán hai bên (2319)
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh (2320)
Nàng rằng: “Nhờ cậy uy linh (2321)
Hãy xin báo đáp ân tình cho phu (2322)
Báo ân rồi sẽ trả thù” (2323)
Từ rằng: “Việc ấy để cho mặc nàng” (2324)
Cho gươm mời đến Thúc Lang (2325)
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run (2326)
Nàng rằng: “Nghĩa trọng nghìn non (2327)
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không (2328)
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng (2329)
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân (2330)
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân (2331)
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là (2332)
Vợ chàng quỷ quái tinh ma (2333)
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau (2334)
Kiến bò miệng chén chưa lâu (2335)
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa” (2336)
Thúc Sinh trông mặt bấy giờ (2337)
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm (2338)
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm (2339)
Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai (2340)
Mụ già sư trưởng thứ hai (2341)
Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên (2342)
Dắt tay mở mặt cho nhìn: (2343)
“Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi (2344)
Nhớ khi lỡ bước sẩy vời (2345)
Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương (2346)
Nghìn vàng gọi chút lễ thường (2347)
Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân” (2348)
Hai người trông mặt tần ngần (2349)
Nửa phần khiếp sợ nửa phần mừng vui (2350)
Nàng rằng: “Xin hãy rốn ngồi (2351)
Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù” (2352)
Kíp truyền chư tướng hiến phù (2353)
Lại đem các tích phạm đồ hậu tra (2354)
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra (2355)
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư (2356)
Thoắt trông nàng đã chào sơ: (2357)
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây (2358)
Đàn bà dễ có mấy tay (2359)
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan (2360)
Dễ dàng là thói hồng nhan (2361)
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều” (2362)
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu (2363)
Khấu đầu dưới trướng giở điều kêu ca (2364)
Rằng: “Tôi chút dạ đàn bà (2365)
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình (2366)
Nghĩ cho khi các viết kinh (2367)
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo (2368)
Lòng riêng riêng cũng kính yêu (2369)
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai (2370)
Trót đà gây việc chông gai (2371)
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng” (2372)
Khen cho: “Thật đã nên rằng (2373)
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời (2374)
Tha ra thì cũng may đời (2375)
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen (2376)
Đã lòng tri quá thì nên (2377)
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay” (2378)
Tạ lòng lạy trước sân mây (2379)
Cửa hiên lại dắt một dây dẫn vào (2380)
Nàng rằng: “Lồng lộng trời cao (2381)
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta (2382)
Trước là Bạc Hạnh Bạc Bà (2383)
Bên là Ưng Khuyển bên là Sở Khanh (2384)
Tú Bà với Mã Giám Sinh (2385)
Các tên tội ấy đáng tình còn sao (2386)
Lệnh quân truyền xuống nội đao (2387)
Thề sao thì lại cứ sao gia hình (2388)
Máu rơi thịt nát tan tành (2389)
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời (2390)
Cho hay muôn sự tại trời (2391)
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta (2392)
Mấy người bạc ác tinh ma (2393)
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương (2394)
Ba quân đông mặt pháp trường (2395)
Thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi (2396)
Việc nàng báo phục vừa rồi (2397)
Giác Duyên vội đã gởi lời từ quy (2398)
Nàng rằng: “Thiên tải nhất thì (2399)
Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn (2400)
Rồi đây bèo hợp mây tan (2401)
Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu” (2402)
Sư rằng: “Cũng chẳng mấy lâu (2403)
Trong năm năm lại gặp nhau đó mà (2404)
Nhớ ngày hành cước phương xa (2405)
Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri (2406)
Bảo cho hội hợp chi kỳ (2407)
Năm nay là một nữa thì năm năm (2408)
Mới hay tiền định chẳng lầm (2409)
Đã tin điều trước ắt nhằm điều sau (2410)
Còn nhiều ân ái với nhau (2411)
Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì” (2412)
Nàng rằng: “Tiền định tiên tri (2413)
Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai (2414)
Họa bao giờ có gặp người (2415)
Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân” (2416)
Giác Duyên vâng dặn ân cần (2417)
Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài. (2418)
42 – Triều Đình Riêng Một Góc Trời
Nàng từ ân oán rạch ròi (2419)
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng (2420)
Tạ ân lạy trước Từ Công: (2421)
“Chút thân bồ liễu nào mong có rày (2422)
Trộm nhờ sấm sét ra tay (2423)
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi (2424)
Khắc xương chép dạ xiết chi (2425)
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây” (2426)
Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay (2427)
Chọn người tri kỷ một ngày được chăng? (2428)
Anh hùng tiếng đã gọi rằng (2429)
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha (2430)
Huống chi việc cũng việc nhà (2431)
Lọ là thâm tạ mới là tri ân (2432)
Xót nàng còn chút song thân (2433)
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa (2434)
Sao cho muôn dặm một nhà (2435)
Cho người thấy mặt là ta cam lòng” (2436)
Vội truyền sửa tiệc quân trung (2437)
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan (2438)
Thừa cơ trúc chẻ ngói tan (2439)
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài (2440)
Triều đình riêng một góc trời (2441)
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà (2442)
Đòi phen gió quét mưa sa (2443)
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam (2444)
Phong trần mài một lưỡi gươm (2445)
Những loài giá áo túi cơm sá gì (2446)
Nghênh ngang một cõi biên thùy (2447)
Thiếu gì cô quả thiếu gì bá vương (2448)
Trước cờ ai dám tranh cường (2449)
Năm năm hùng cứ một phương hải tần. (2450)
43 – Hồ Tôn Hiến Dụ Hàng
Có quan tổng đốc trọng thần (2451)
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài (2452)
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai (2453)
Tiện nghi bát tiễu việc ngoài đổng nhung (2454)
Biết Từ là đấng anh hùng (2455)
Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn (2456)
Đóng quân làm chước chiêu an (2457)
Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng (2458)
Lại riêng một lễ với nàng (2459)
Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân (2460)
Tin vào gởi trước trung quân (2461)
Từ Công riêng hãy mười phân hồ đồ (2462)
Một tay gây dựng cơ đồ (2463)
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành (2464)
Bó thân về với triều đình (2465)
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu (2466)
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau (2467)
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi (2468)
Sao bằng riêng một biên thùy (2469)
Sức này đã dễ làm gì được nhau (2470)
Chọc trời khuấy nước mặc dầu (2471)
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai (2472)
Nàng thì thật dạ tin người (2473)
Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu (2474)
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo (2475)
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân (2476)
Bằng nay chịu tiếng vương thần (2477)
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì (2478)
Công tư vẹn cả hai bề (2479)
Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương (2480)
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường (2481)
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha (2482)
Trên vì nước dưới vì nhà (2483)
Một là đắc hiếu hai là đắc trung (2484)
Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng (2485)
E dè sóng gió hãi hùng cỏ hoa (2486)
Nhân khi bàn bạc gần xa (2487)
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào (2488)
Rằng: “Ơn thánh trạch dồi dào (2489)
Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu (2490)
Bình thành công đức bấy lâu (2491)
Ai ai cũng đội trên đầu biết bao (2492)
Ngẫm từ dấy việc binh đao (2493)
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu (2494)
Làm chi để tiếng về sau (2495)
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào (2496)
Sao bằng lộc trọng quyền cao (2497)
Công danh ai dứt lối nào cho qua?” (2498)
Nghe lời nàng nói mặn mà (2499)
Thế công Từ mới trở ra thế hàng (2500)
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng (2501)
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh. (2502)
44 – Từ Hải Chết Đứng
Tin lời thành hạ yêu minh (2503)
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng (2504)
Việc binh bỏ chẳng giữ giàng (2505)
Vương sư nghe đã tỏ tường thực hư (2506)
Hồ Công quyết kế thừa cơ (2507)
Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công (2508)
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong (2509)
Lễ nghi dàn trước bác đòng phục sau (2510)
Từ Công hờ hững biết đâu (2511)
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên (2512)
Hồ Công ám hiệu trận tiền (2513)
Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ (2514)
Đương khi bất ý chẳng ngờ (2515)
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn (2516)
Tử sinh liều giữa trận tiền (2517)
Dạn dày cho biết gan liền tướng quân (2518)
Khí thiêng khi đã về thần (2519)
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng (2520)
Trơ như đá vững như đồng (2521)
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời (2522)
Quan quân truy sát đuổi dài (2523)
Ầm ầm sát khí ngất trời ai đang (2524)
Trong hào ngoài lũy tan hoang (2525)
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi (2526)
Trong vòng tên đá bời bời (2527)
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ (2528)
Khóc rằng: “Trí dũng có thừa (2529)
Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này (2530)
Mặt nào trông thấy nhau đây (2531)
Thà liều sống chết một ngày với nhau” (2532)
Dòng thu như xối cơn sầu (2533)
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên (2534)
Lạ thay oan khí tương triền (2535)
Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra (2536)
Quan quân kẻ lại người qua (2537)
Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần. (2538)
45 – Hầu Rượu Hồ Tôn Hiến
Đem vào đến trước trung quân (2539)
Hồ Công thấy mặt ân cần hỏi han (2540)
Rằng: “Nàng chút phận hồng nhan (2541)
Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương (2542)
Đã hay thành toán miếu đường (2543)
Giúp công cũng có lời nàng mới nên (2544)
Bây giờ sự đã vạn tuyền (2545)
Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?” (2546)
Nàng càng tủi ngọc tuôn dào (2547)
Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng (2548)
Rằng: “Từ là đấng anh hùng (2549)
Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi (2550)
Tin tôi nên quá nghe lời (2551)
Đem thân bách chiến làm tôi triều đình (2552)
Ngỡ là phu quý phụ vinh (2553)
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương (2554)
Năm năm trời bể ngang tàng (2555)
Dấn mình đi bỏ chiến trường như không (2556)
Khéo khuyên để lấy làm công (2557)
Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu (2558)
Xét mình công ít tội nhiều (2559)
Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi (2560)
Xin cho thiển thổ một doi (2561)
Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh” (2562)
Hồ Công nghe nói thương tình (2563)
Truyền cho kiểu táng di hình bên sông (2564)
Trong quân mở tiệc hạ công (2565)
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan (2566)
Bắt nàng thị yến dưới màn (2567)
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu (2568)
Một cung gió tủi mưa sầu (2569)
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay (2570)
Ve ngâm vượn hót nào tày (2571)
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu (2572)
Hỏi rằng: “Này khúc ở đâu (2573)
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay” (2574)
Thưa rằng: “Bạc phận khúc này (2575)
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ (2576)
Cung cầm lựa những ngày xưa (2577)
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây” (2578)
Càng nghe càng đắm càng say (2579)
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình (2580)
Dạy rằng: “Hương lửa ba sinh (2581)
Dây loan xin nối cầm lành cho ai?” (2582)
Thưa rằng: “Chút phận lạc loài (2583)
Trong mình nghĩ đã có người thác oan (2584)
Còn chi nữa cánh hoa tàn (2585)
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân (2586)
Rộng thương còn mảnh hồng quần (2587)
Hơi tàn được thấy gốc phần là may” (2588)
Hạ công chén đã quá say (2589)
Hồ Công đến lúc rạng ngày nhớ ra (2590)
Nghĩ mình phương diện quốc gia (2591)
Quan trên nhắm xuống người ta trông vào (2592)
Phải tuồng trăng gió hay sao (2593)
Sự này biết tính thế nào được đây? (2594)
Tảo nha vừa buổi rạng ngày (2595)
Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài (2596)
Lệnh quan ai dám cãi lời (2597)
Ép tình mới gán cho người thổ quan (2598)
Ông tơ thực nhé đa đoan (2599)
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên. (2600)
46 – Tự Tử Ở Sông Tiền Đường
Kiệu hoa áp thắng xuống thuyền (2601)
Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao (2602)
Nàng càng ủ liễu phai đào (2603)
Trăm phần nào có phần nào phần tươi (2604)
Đành thân cát dập sóng vùi (2605)
Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh (2606)
Chân trời mặt bể lênh đênh (2607)
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào? (2608)
Duyên đâu ai dứt tơ đào (2609)
Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay (2610)
Thân sao thân đến thế này (2611)
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi (2612)
Đã không biết sống là vui (2613)
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương (2614)
Một mình cay đắng trăm đường (2615)
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi (2616)
Mảnh trăng đã gác non đoài (2617)
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong (2618)
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng (2619)
Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường (2620)
Nhớ lời thần mộng rõ ràng (2621)
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây (2622)
“Đạm Tiên nàng nhé có hay (2623)
Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta” (2624)
Dưới đèn sẵn bức tiên hoa (2625)
Một thiên tuyệt bút gọi là để sau (2626)
Cửa bồng vội mở rèm châu (2627)
Trời cao bể rộng một màu bao la (2628)
Rằng: “Từ Công hậu đãi ta (2629)
Chút vì việc nước mà ra phụ lòng (2630)
Giết chồng mà lại lấy chồng (2631)
Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời (2632)
Thôi thì một thác cho rồi (2633)
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông” (2634)
Trông vời con nước mênh mông (2635)
Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang (2636)
Thổ quan theo vớt vội vàng (2637)
Thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi (2638)
Thương thay cũng một thân người (2639)
Khéo thay mang lấy sắc tài làm chi (2640)
Những là oan khổ lưu ly (2641)
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân (2642)
Mười lăm năm bấy nhiêu lần (2643)
Làm gương cho khách hồng quần thử soi (2644)
Đời người đến thế thì thôi (2645)
Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay (2646)
Mấy người hiếu nghĩa xưa nay (2647)
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương.” (2648)
47 – Được Giác Duyên Cứu
Giác Duyên từ tiết giã nàng (2649)
Treo bầu quảy níp rộng đường vân du (2650)
Gặp bà Tam Hợp đạo cô (2651)
Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng: (2652)
“Người sao hiếu nghĩa đủ đường (2653)
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?” (2654)
Sư rằng: ‘Phúc họa đạo trời (2655)
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra (2656)
Có trời mà cũng tại ta (2657)
Tu là cội phúc tình là dây oan (2658)
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan (2659)
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành (2660)
Lại mang lấy một chữ tình (2661)
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong (2662)
Vậy nên những chốn thong dong (2663)
Ở không yên ổn ngồi không vững vàng (2664)
Ma đưa lối quỷ đem đường (2665)
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi (2666)
Hết nạn nọ đến nạn kia (2667)
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần (2668)
Giữa vòng giáo dựng gươm trần (2669)
Kề răng hùm sói gủi thân tôi đòi (2670)
Giữa dòng nước dẫy sóng dồi (2671)
Trước hàm rồng cá gieo mồi thủy tinh (2672)
Oan kia theo mãi với tình (2673)
Một mình mình biết một mình mình hay (2674)
Làm cho sống đọa thác đày (2675)
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi” (2676)
Giác Duyên nghe nói rụng rời: (2677)
“Một đời nàng nhé thương ôi còn gì” (2678)
Sư rằng: “Song chẳng hề chi (2679)
Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều (2680)
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều (2681)
Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm (2682)
Lấy tình thâm trả tình thâm (2683)
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời (2684)
Hại một người cứu muôn người (2685)
Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng (2686)
Thửa công đức ấy ai bằng (2687)
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi (2688)
Khi nên trời cũng chiều người (2689)
Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau (2690)
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau (2691)
Tiền Đường thả một bè lau rước người (2692)
Trước sau cho vẹn một lời (2693)
Duyên ta mà cũng phúc trời chi không” (2694)
Giác Duyên nghe nói mừng lòng (2695)
Lân la tìm thú bên sông Tiền Đường (2696)
Đánh tranh chụm nóc thảo đường (2697)
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi (2698)
Thuê năm ngư phủ hai người (2699)
Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông (2700)
Một lòng chẳng quản mấy công (2701)
Khéo trong gặp gỡ cũng trong chuyển vần (2702)
Kiều từ gieo xuống duềnh ngân (2703)
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi (2704)
Ngư ông kéo lưới vớt người (2705)
Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa (2706)
Trên mui lướt thướt áo là (2707)
Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương (2708)
Giác Duyên nhìn thật mặt nàng (2709)
Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai (2710)
Mơ màng phách quế hồn mai (2711)
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa (2712)
Rằng: “Tôi đã có lòng chờ (2713)
Mất công đã mấy năm thừa ở đây (2714)
Chị sao phận mỏng đức dày (2715)
Kiếp này đã vậy lòng này dễ ai (2716)
Tâm thành đã thấu đến trời (2717)
Bán mình là hiếu cứu người là nhân (2718)
Một niềm vì nước vì dân (2719)
Âm công cất một đồng cân đã già (2720)
Đoạn trường sổ rút tên ra (2721)
Đoạn trường thơ phải nghênh mà trả nhau (2722)
Còn nhiều hưởng thụ về sau (2723)
Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào” (2724)
Nàng còn ngơ ngẩn biết sao (2725)
Trạc Tuyền! Nghe tiếng gọi vào bên tai (2726)
Giật mình thoắt tỉnh giấc mai (2727)
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn (2728)
Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên (2729)
Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề (2730)
Thấy nhau mừng rỡ trăm bề (2731)
Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư (2732)
Một nhà chung chạ sớm trưa (2733)
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng (2734)
Bốn bề bát ngát mênh mông (2735)
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau. (2736)
48 – Kim Trọng Trở Lại Vườn Thúy
Nạn xưa trút sạch làu làu (2737)
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này (2738)
Nỗi nàng tai nạn đã đầy (2739)
Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương (2740)
Từ ngày muôn dặm phù tang (2741)
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà (2742)
Vội sang vườn Thúy dò la (2743)
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa (2744)
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa (2745)
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời (2746)
Trước sau nào thấy bóng người (2747
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông (2748)
Xập xè én liệng lầu không (2749)
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày (2750)
Cuối tường gai góc mọc đầy (2751)
Đi về này những lối này năm xưa (2752)
Chung quanh lặng ngắt như tờ (2753)
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai? (2754)
Láng giềng có kẻ sang chơi (2755)
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình (2756)
Hỏi ông ông mắc tụng đình (2757)
Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha (2758)
Hỏi nhà nhà đã dời xa (2759)
Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân (2760)
Đều là sa sút khó khăn (2761)
May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi (2762)
Điều đâu sét đánh lưng trời (2763)
Thoạt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao (2764)
Vội han di trú nơi nao (2765)
Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi (2766)
Nhà tranh vách đất tả tơi (2767)
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa (2768)
Một sân đất cỏ dầm mưa (2769)
Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường (2770)
Đánh liều lên tiếng ngoài tường (2771)
Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra (2772)
Dắt tay vội rước vào nhà (2773)
Mé sau viên ngoại ông bà ra ngay (2774)
Khóc than kể hết niềm tây: (2775)
“Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa (2776)
Kiều nhi phận mỏng như tờ (2777)
Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng (2778)
Gặp cơn gia biến lạ dường (2779)
Bán mình nó phải tìm đường cứu cha (2780)
Dùng dằng khi bước chân ra (2781)
Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần (2782)
Trót lời nặng với lang quân (2783)
Mượn con em nó Thúy Vân thay lời (2784)
Gọi là trả chút nghĩa người (2785)
Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên (2786)
Kiếp này duyên đã phụ duyên (2787)
Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh (2788)
Mấy lời ký chú đinh ninh (2789)
Ghi lòng để dạ cất mình ra đi (2790)
Phận sao bạc bấy Kiều nhi (2791)
Chàng Kim về đó con thì đi đâu?” (2792)
Ông bà càng nói càng đau (2793)
Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa (2794)
Vật mình vẫy gió tuôn mưa (2795)
Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai (2796)
Đau đòi đoạn ngất đòi thôi (2797)
Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê. (2798)
49 – Kim Trọng Kết Duyên Với Thúy Vân
Thấy chàng đau nỗi biệt ly (2799)
Nhịn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên: (2800)
“Bây giờ ván đã đóng thuyền (2801)
Đã đành phận bạc khôn đền tình chung (2802)
Quá thương chút nghĩa đèo bòng (2803)
Nghìn vàng thân ấy thì hòng bỏ sao?” (2804)
Dỗ dành khuyên giải trăm chiều (2805)
Lửa phiền khôn dập càng khêu mối phiền (2806)
Thề xưa giở đến kim hoàn (2807)
Của xưa lại giở đến đàn với hương (2808)
Sinh càng trông thấy càng thương (2809)
Gan càng tức tối ruột càng xót xa (2810)
Rằng: “Tôi trót quá chân ra (2811)
Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo (2812)
Cùng nhau thề thốt đã nhiều (2813)
Những điều vàng đá phải điều nói không (2814)
Chưa chăn gối cũng vợ chồng (2815)
Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang? (2816)
Bao nhiêu của mấy ngày đàng (2817)
Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi” (2818)
Nỗi thương nói chẳng hết lời (2819)
Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra (2820)
Vội về sửa chốn vườn hoa (2821)
Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang (2822)
Thần hôn chăm chút lễ thường (2823)
Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa (2824)
Đinh ninh mài lệ chép thơ (2825)
Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe (2826)
Biết bao công mướn của thuê (2827)
Lâm Thanh mấy độ đi về dặm khơi (2828)
Người một nơi hỏi một nơi (2829)
Mênh mông nào biết bể trời nơi nao (2830)
Sinh càng thảm thiết khát khao (2831)
Như nung gan sắt như bào lòng son (2832)
Ruột tằm ngày một héo hon (2833)
Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve (2834)
Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê (2835)
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao (2836)
Xuân huyên lo sợ biết bao (2837)
Quá ra khi đến thế nào mà hay (2838)
Vội vàng sắm sửa chọn ngày (2839)
Duyên Vân sớm đã xe dây cho chàng (2840)
Người yểu điệu kẻ văn chương (2841)
Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì (2842)
Tuy rằng vui chữ vu quy (2843)
Vui này đã cất sầu kia được nào (2844)
Khi ăn ở lúc ra vào (2845)
Càng âu duyên mới càng dào tình xưa (2846)
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ (2847)
Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng (2848)
Có khi vắng vẻ thư phòng (2849)
Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa (2850)
Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ (2851)
Trầm bay lạt khói gió đưa lay rèm (2852)
Dường như bên chái trước thềm (2853)
Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng (2854)
Bởi lòng tạc đá ghi vàng (2855)
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây (2856)
Những là phiền muộn đêm ngày (2857)
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần? (2858)
50 – Vương – Kim Hội Ngộ – Tìm Kiều
Chế khoa gặp hội trường văn (2859)
Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày (2860)
Cửa trời rộng mở đường mây (2861)
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần (2862)
Chàng Vương nhớ đến xa gần (2863)
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền (2864)
Tình xưa ân trả nghĩa đền (2865)
Gia thân bèn mới kết duyên Châu Trần (2866) Chàng từ nhẹ bước thanh vân (2867) – (Kim)
Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương (2868)
Ấy ai dặn ngọc thề vàng (2869)
Bây giờ kim mã ngọc đường với ai (2870)
Ngọn bèo chân sóng lạc loài (2871)
Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly (2872)
Vâng ra ngoại nhậm Lâm Tri (2873)
Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn (2874)
Cầm đường ngày tháng thanh nhàn (2875)
Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao (2876)
Phòng xuân trướng rủ hoa đào (2877)
Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng (2878)
Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng (2879)
Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi (2880)
Nọ Lâm Thanh với Lâm Tri (2881)
Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm (2882)
Trong cơ thanh khí tương tầm (2883)
Ở đây hoặc có giai âm chăng là? (2884)
Thăng đường chàng mới hỏi tra (2885)
Họ Đô có kẻ lại già thưa lên: (2886)
“Sự này đã ngoại mười niên (2887)
Tôi đà biết mặt biết tên rành rành (2888)
Tú Bà cùng Mã Giám sinh (2889)
Đi mua người ở Bắc Kinh đưa về (2890)
Thúy Kiều tài sắc ai bì (2891)
Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ (2892)
Kiên trinh chẳng phải gan vừa (2893)
Liều mình thế ấy phải lừa thế kia (2894)
Phong trần chịu đã ê chề (2895)
Dây duyên sau lại xe về Thúc Lang (2896)
Phải tay vợ cả phũ phàng (2897)
Bắt về Vô Tích toan đường bẻ hoa (2898)
Dứt mình nàng phải trốn ra (2899)
Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia (2900)
Thoắt buôn về thoắt bán đi (2901)
Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi! (2902)
Bỗng đâu lại gặp một người (2903)
Hơn người trí dũng nghiêng trời uy linh (2904)
Trong tay muôn vạn tinh binh (2905)
Kéo về đóng chật một thành Lâm Tri (2906)
Tóc tơ các tích mọi khi (2907)
Oán thì trả oán ân thì trả ân (2908)
Đã nên có nghĩa có nhân (2909)
Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen (2910)
Chưa tường được họ được tên (2911)
Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường” (2912)
Nghe lời Đô nói rõ ràng (2913)
Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc Sinh (2914)
Nỗi nàng hỏi hết phân minh (2915)
Chồng con đâu tá tính danh là gì? (2916)
Thúc rằng: “Gặp lúc lưu ly (2917)
Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ (2918)
Đại vương tên Hải họ Từ (2919)
Đánh quen trăm trận sức dư muôn người (2920)
Gặp nàng khi ở châu Thai (2921)
Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên (2922)
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên (2923)
Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng (2924)
Đại quân đồn đóng cõi đông (2925)
Về sau chẳng biết vân mồng làm sao” (2926)
Nghe tường ngành ngọn tiêu hao (2927)
Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ (2928)
Xót thay chiếc lá bơ vơ (2929)
Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong? (2930)
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng (2931)
Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan (2932)
Lời xưa đã lỗi muôn vàn (2933)
Mảnh gương còn đó phím đàn còn đây (2934)
Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây (2935)
Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi (2936)
Bình bồng còn chút xa xôi (2937)
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an! (2938)
Rắp mong treo ấn từ quan (2939)
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua (2940)
Dấn mình trong áng can qua (2941)
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau (2942)
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu (2943)
Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn! (2944)
Những là nấn ná đợi tin (2945)
Nắng mưa biết đã mấy phen đổi đời? (2946)
Năm mây bỗng thấy chiếu trời (2947)
Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành (2948)
Kim thì cải nhậm Nam Bình (2949)
Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu Dương (2950)
Sắm xanh xe ngựa vội vàng (2951)
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan (2952)
Xảy nghe thế giặc đã tan (2953)
Sóng êm Phúc Kiến lửa tàn Chiết Giang (2954)
Được tin Kim mới rủ Vương (2955)
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa (2956)
Hàng Châu đến đó bấy giờ (2957)
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành (2958)
Rằng: “Ngày hôm nọ giao binh (2959)
Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền (2960)
Nàng Kiều công cả chẳng đền (2961)
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù (2962)
Nàng đà gieo ngọc trầm châu (2963)
Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan!” (2964)
Thương ôi! Không hợp mà tan (2965)
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng (2966)
Chiêu hồn thiết vị lễ thường (2967)
Giải oan lập một đàn tràng bên sông (2968)
Ngọn triều non bạc trùng trùng (2969)
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo (2970)
Tình thâm biển thảm lạ điều (2971)
Nào hồn Tinh Vệ biết theo chốn nào? (2972)
51 – Gặp Lại Gia Đình
Cơ duyên đâu bỗng lạ sao (2973)
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi (2974)
Trông lên linh vị chữ bài (2975)
Thất kinh mới hỏi: “Những người đâu ta? (2976)
Với nàng thân thích gần xa (2977)
Người còn sao bỗng làm ma khóc người?” (2978)
Nghe tin ngơ ngác rụng rời (2979)
Xúm quanh kể lể, rộn lời hỏi tra (2980)
“Này chồng này mẹ này cha (2981)
Này là em ruột này là em dâu (2982)
Thật tin nghe đã bấy lâu (2983)
Pháp sư dạy thế sự đâu lạ dường!” (2984)
Sư rằng: “Nhân quả với nàng (2985)
Lâm Tri buổi trước Tiền Đường buổi sau (2986)
Khi nàng gieo ngọc trầm châu (2987)
Đón theo tôi đã gặp nhau rước về (2988)
Cùng nhau nương cửa Bồ đề (2989)
Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa (2990)
Phật tiền ngày bạc lân la (2991)
Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây” (2992)
Nghe tin nở mặt nở mày (2993)
Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng? (2994)
Từ phen chiếc lá lìa rừng (2995)
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây(2996)
Rõ ràng hoa rụng hương bay (2997)
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi (2998)
Minh dương đôi ngả chắc rồi (2999)
Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên! (3000)
Quây nhau lạy tạ Giác Duyên (3001)
Bộ hành một lũ theo liền một khi (3002)
Bẻ lau vạch cỏ tìm đi (3003)
Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần (3004)
Quanh co theo dải giang tân (3005)
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường (3006)
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng (3007)
Phòng trong vội dạo sen vàng bước ra (3008)
Trông xem đủ mặt một nhà (3009)
Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi (3010)
Hai em phương trưởng hòa hai (3011)
Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa! (3012)
Tưởng bây giờ là bao giờ (3013)
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao! (3014)
Giọt châu thánh thót quẹn bào (3015)
Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình (3016)
Huyên già dưới gối gieo mình (3017)
Khóc than mình kể sự mình đầu đuôi: (3018)
“Từ con lưu lạc quê người (3019)
Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm (3020)
Tính rằng sông nước cát lầm (3021)
Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!” (3022)
Ông bà trông mặt cầm tay (3023)
Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra (3024)
Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa (3025)
Mười phần xuân có gầy ba bốn phần (3026)
Nỗi mừng biết lấy chi cân (3027)
Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu (3028)
Hai em hỏi trước han sau (3029)
Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi (3030)
Rủ nhau lạy trước Phật đài (3031)
Tái sinh trần tạ lòng người từ bi (3032)
Kiệu hoa giục giã tức thì (3033)
Vương ông dạy rước cùng về một nơi (3034)
Nàng rằng: “Chút phận hoa rơi (3035)
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay (3036)
Tính rằng mặt nước chân mây (3037)
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? (3038)
Được rày tái thế tương phùng (3039)
Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay! (3040)
Đã đem mình bỏ am mây (3041)
Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa (3042)
Mùi thiền đã bén muối dưa (3043)
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng (3044)
Sự đời đã tắt lửa lòng (3045)
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! (3046)
Dở dang nào có hay gì? (3047)
Đã tu tu trót qua thì thì thôi! (3048)
Trùng sinh ân nặng bể trời (3049)
Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?” (3050)
Ông rằng: “Bỉ thử nhất thì (3051)
Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền (3052)
Phải điều cầu Phật cầu Tiên (3053)
Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây? (3054)
Độ sinh nhờ đức cao dày (3055)
Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung” (3056)
Nghe lời nàng phải chiều lòng (3057)
Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra. (3058)
52 – Mở Tiệc Đoàn Viên
Một đoàn về đến quan nha (3059)
Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy (3060)
Tàng tàng chén cúc dở say (3061)
Đứng lên Vân mới giãi bày một hai (3062)
Rằng: “Trong tác hợp cơ trời (3063)
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao (3064)
Gặp cơn bình địa ba đào (3065)
Vậy đem duyên chị buộc vào cho em (3066)
Cũng là phận cải duyên kim (3067)
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao? (3068)
Những là rày ước mai ao (3069)
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình! (3070)
Bây giờ gương vỡ lại lành (3071)
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi (3072)
Còn duyên may lại còn người (3073)
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa (3074)
Quả mai ba bảy đương vừa (3075)
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì!” (3076)
Dứt lời nàng vội gạt đi: (3077)
“Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ? (3078)
Một lời tuy có ước xưa (3079)
Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều (3080)
Nói càng hổ thẹn trăm chiều (3081)
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!” (3082)
Chàng rằng: “Nói cũng lạ đời (3083)
Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao? (3084)
Một lời đã trót thâm giao (3085)
Dưới dày có đất trên cao có trời! (3086)
Dẫu rằng vật đổi sao dời (3087)
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh (3088)
Duyên kia có phụ chi tình (3089)
Mà toan chia gánh chung tình làm hai?” (3090)
Nàng rằng: “Gia thất duyên hài (3091)
Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng (3092)
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng (3093)
Hoa thơm phong nhụy trăng vòng tròn gương (3094)
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng (3095)
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa (3096)
Thiếp từ ngộ biến đến giờ (3097)
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa (3098)
Bấy chầy gió táp mưa sa (3099)
Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn (3100)
Còn chi là cái hồng nhan (3101)
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào? (3102)
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao? (3103)
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh! (3104)
Đã hay chàng nặng vì tình (3105)
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru! (3106)
Từ rày khép cửa phòng thu (3107)
Chẳng tu thì cũng là tu mới là! (3108)
Chàng dù nghĩ đến tình xa (3109)
Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ (3110)
Nói chi kết tóc xe tơ (3111)
Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!” (3112)
Chàng rằng: “Khéo nói nên lời (3113)
Mà trong lẽ phải có người có ta! (3114)
Xưa nay trong đạo đàn bà (3115)
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường (3116)
Có khi biến có khi thường (3117)
Có quyền nào phải một đường chấp kinh (3118)
Như nàng lấy hiếu làm trinh (3119)
Bụi nào cho đục được mình ấy vay? (3120)
Trời còn để có hôm nay (3121)
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời (3122)
Hoa tàn mà lại thêm tươi (3123)
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa (3124)
Có điều chi nữa mà ngờ (3125)
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu! (3126)
Nghe chàng nói đã hết điều (3127)
Hai thân thì cũng quyết theo một bài (3128)
Hết lời khôn lẽ chối lời (3129)
Gót đầu nàng những ngắn dài thở than. (3130)
53 – Thành Hôn – Kiều Đàn Lần Cuối
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên (3131)
Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là (3132)
Cùng nhau giao lạy một nhà (3133)
Lễ đà đủ lễ đôi là xứng đôi (3134)
Động phòng dìu dặt chén mồi (3135)
Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa (3136)
Những từ sen ngó đào tơ (3137)
Mười lăm năm mới bây giờ là đây! (3138)
Tình duyên ấy hợp tan này (3139)
Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao (3140)
Canh khuya bức gấm rủ thao (3141)
Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân (3142)
Tình nhân lại gặp tình nhân (3143)
Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình! (3144)
Nàng rằng: “Phận thiếp đã đành (3145)
Có làm chi nữa cái mình bỏ đi! (3146)
Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi (3147)
Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may (3148)
Riêng lòng đã thẹn lắm thay (3149)
Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi (3150)
Những là âu yếm vành ngoài (3151)
Còn toan mở mặt với người cho qua (3152)
Lại như những thói người ta (3153)
Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa (3154)
Khéo là giở nhuốc bày trò (3155)
Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi! (3156)
Người yêu ta xấu với người (3157)
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau! (3158)
Cửa nhà dù tính về sau (3159)
Thì còn em đó lọ cầu chị đây! (3160)
Chữ trinh còn một chút này (3161)
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan (3162)
Còn nhiều ân ái chan chan (3163)
Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi?” (3164)
Chàng rằng: “Gắn bó một lời (3165)
Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau (3166)
Xót người lưu lạc bấy lâu (3167)
Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều! (3168)
Thương nhau sinh tử đã liều (3169)
Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình (3170)
Chừng xuân tơ liễu còn xanh (3171)
Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân (3172)
Gương trong chẳng chút bụi trần (3173)
Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm! (3174)
Bấy lâu đáy bể mò kim (3175)
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa (3176)
Ai ngờ lại họp một nhà (3177)
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!” (3178)
Nghe lời sửa áo cài trâm (3179)
Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng (3180)
Thân tàn gạn đục khơi trong (3181)
Là nhờ quân tử khác lòng người ta (3182)
Mấy lời tâm phúc ruột rà (3183)
Tương tri dường ấy mới là tương tri (3184)
Chở che đùm bọc thiếu gì(3185)
Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay! (3186)
Thoắt thôi tay lại cầm tay (3187)
Càng yêu vì nết càng say vì tình (3188)
Thêm nến giá nối hương bình (3189)
Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan (3190)
Tình xưa lai láng khôn hàn (3191)
Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa (3192)
Nàng rằng: “Vì mấy đường tơ (3193)
Lầm người cho đến bây giờ mới thôi (3194)
Ăn năn thì sự đã rồi (3195)
Nể lòng người cũ vâng lời một phen” (3196)
Phim đàn dìu dặt tay tiên (3197)
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa (3198)
Khúc đâu đầm ấm dương hòa (3199)
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh? (3200)
Khúc đâu êm ái xuân tình (3201)
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên? (3202)
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên (3203)
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông! (3204)
Lọt tai nghe suốt năm cung (3205)
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao (3206)
Chàng rằng: “Phổ ấy tay nào (3207)
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy? (3208)
Tẻ vui bởi tại lòng này (3209)
Hay là khổ tận đến ngày cam lai? (3210)
Nàng rằng: “Vì chút nghề chơi (3211)
Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu! (3212)
Một phen tri kỷ cùng nhau (3213)
Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa”. (3214)
54 – Một Nhà Phước Lộc Gồm Hai
Chuyện trò chưa cạn tóc tơ (3215)
Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông (3216)
Tình riêng chàng lại nói cùng(3217)
Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao (3218)
Cho hay thục nữ chí cao (3219)
Phải người sớm mận tối đào như ai? (3220)
Hai tình vẹn vẻ hòa hai (3221)
Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ (3222)
Khi chén rượu khi cuộc cờ (3223)
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên (3224)
Ba sinh đã phỉ mười nguyền (3225)
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy (3226)
Nhớ lời lập một am mây (3227)
Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên (3228)
Đến nơi đóng cửa cài then (3229)
Rêu trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà (3230)
Sư đà hái thuốc phương xa (3231)
Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu? (3232)
Nặng vì chút nghĩa xưa sau (3233)
Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai (3234)
Một nhà phúc lộc gồm hai (3235)
Thiên niên dằng dặc quan giai lần lần (3236)
Thừa gia chẳng hết nàng Vân (3237)
Một cây cù mộc một sân quế hòe (3238)
Phong lưu phú quý ai bì (3239)
Vầy xuân một cửa để bia muôn đời. (3240)
55 – Kết : Chữ Tâm – Chữ Tài
Ngẫm hay muôn sự tại trời (3241)
Trời kia đã bắt làm người có thân (3242)
Bắt phong trần phải phong trần (3243)
Cho thanh cao mới được phần thanh cao (3244)
Có đâu thiên vị người nào (3245)
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai (3246)
Có tài mà cậy chi tài (3247)
Chữ tài liền với chữ tai một vần (3248)
Đã mang lấy nghiệp vào thân (3249)
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa (3250)
Thiện căn ở tại lòng ta (3251)
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (3252)
Lời quê chắp nhặt dông dài (3253)
Mua vui cũng được một vài trống canh. (3254)
(Nguyễn Du)
Tài Liệu Tham Khảo :
Truyện Kiều – 1866 – Bản Liễu Văn Ðường – Nguyễn Quảng Tuân (phiên âm, khảo dị)
Truyện Kiều – 1870 – Bản Kinh đời Tự Ðức – Nguyễn Quảng Tuân (phiên âm, khảo dị)
Truyện Kiều – 1871 – Bản Liễu Văn Ðường – Nguyễn Quảng Tuân (phiên âm, khảo dị)
Truyện Kiều – 1872 – Bản Duy Minh Thị – Nguyễn Tài Cẩn
Truyện Kiều – 1902 – Bản Kiều Oánh Mậu – Nguyễn Thế & Phan Anh Dũng
Truyện Kiều Chú Giải – 1953 – Lê Văn Hòe
Truyện Kiều – 2004 – Phạm Đan Quế
Truyện Kiều – 2017 – Hội Kiều Học Việt Nam – Ấn bản kỷ niệm 250 năm năm sinh đại thi hào Nguyễn Du
Trong khoảng thời gian một trăm năm của kiếp người, tài sắc và số mạng thường hay chống đối nhau. Trải qua những cuộc thăng trầm dâu biển của kiếp sống, những điều ta trông thấy thường làm cho trái tim ta co thắt lại. Được cái này thì mất cái khác, ông trời xanh đã quen thói đánh ghen với những khách má hồng. Những kẻ có tài có sắc thì thường phải gánh chịu những khổ đau của số mạng.
Hoa ghen thua thắm
Những đêm gần đây chong đèn đọc những truyện tình ngày trước, tôi có để ý đến một câu chuyện chép trong bộ Phong Tình Lục. Câu chuyện này đã xảy ra trong những năm Gia Tĩnh (1522-1566) triều Minh, khi đất nước bốn phương còn thanh bình, và thế đứng của hai kinh đô, Bắc Kinh và Nam Kinh, còn vững chãi. Tại một miền phụ cận Bắc Kinh có gia đình họ Vương. Hai ông bà sống với ba người con; họ thuộc về hạng trung lưu, khá giả. Cậu con trai có phận sự nối nghiệp nho gia tên là Vương Quan, người con út. Đầu lòng là hai cô con gái, đẹp như trăng: cô chị tên là Thúy Kiều, cô em tên là Thúy Vân. Cốt cách của hai chị em là cốt cách thanh tao của mai, thần thái của hai chị em là thần thái trong sáng của tuyết. Mỗi người đẹp một cách khác nhau, và người nào cũng rất đẹp.
Thúy Vân có nét đẹp đài các sang trọng khác thường: khuôn mặt rạng rỡ như trăng, lông mày nở dài như liễu. Nụ cười nàng tươi thắm như hoa. Giọng nói nàng thanh tao như ngọc. Mây cũng không dịu bằng mái tóc, tuyết cũng không mịn bằng làn da. Vậy mà Thúy Kiều lại còn sắc sảo và mặn mà hơn. Lông mày nàng như dáng núi mùa xuân, hai mắt nàng như hồ thu nước biếc. Khóm hoa cũng phải ghen tức vì không tươi thắm bằng nàng, rặng liễu cũng phải hờn dỗi vì không được xanh tốt như nàng. Nụ cười của Kiều có khả năng làm nghiêng nước nghiêng thành. Đứng về mặt sắc đẹp, Kiều chắc phải đứng vào hạng nhất, điều đó đã đành. Nhưng đứng về mặt tài hoa cũng chưa chắc có ai sánh được với nàng. Không những Kiều rất thông minh mà nàng còn làm thơ rất hay, vẽ rất đẹp và ca ngâm rất có tài. Nàng cũng có khiếu về âm nhạc, rất giỏi về nghệ thuật sáng tác theo cung bực ngũ âm, sử dụng đàn hồ cầm rất khéo, không ai theo kịp. Một trong những bản nhạc mà nàng tự tay sáng tác có tên là Phận Mỏng (Bạc Mệnh), một bản nhạc rất hay, ai nghe cũng cảm thấy thấm thía ruột gan, ảo não cả cõi lòng.
Kiếp hồng nhan mong manh
Mùa Xuân năm ấy đẹp lắm. Chim én đã về bay lượn trên khung trời tươi sáng như những chiếc thoi, những bông hoa lê trắng muốt đã nở trên bối cảnh của những đồi cỏ xanh non dàn tận đến chân trời. Thấm thoát mà sáu mươi ngày xuân đẹp đã đi qua, chỉ còn lại có ba chục. Đầu tháng ba là tiết Thanh Minh, có lễ Tảo Mộ và có hội Đạp Thanh. Như chim én chim oanh, thiên hạ gần xa nô nức đi trẩy hội và dự lễ rất đông. Ba chị em Thúy Kiều cũng sắm sửa mặc áo đẹp và điểm trang để đi chơi Xuân. Tài tử và giai nhân dập dìu chật mọi nẻo đường. Ngựa xe xuôi theo các con đường như nước chảy. Khăn và áo phô trương đủ màu đủ kiểu. Đó đây người ta kéo nhau lên viếng thăm, thắp hương, cầu nguyện và cúng lễ tại các ngôi mộ của thân nhân. Những thoi vàng giấy được rải ra, và tro tiền giấy phất phới bay lên từ những địa điểm ấy. Mặt trời đã ngả về phương Tây, ba chị em nắm tay nhau thong thả ra về. Họ đi bên một dòng suối nhỏ. Phong cảnh có vẻ thanh tú. Giòng nước uốn quanh, cuối ghềnh lại có một cây cầu nhỏ bắc sang. Bên đường, họ để ý thấy một nấm mộ nhỏ quạnh hiu, không ai chăm sóc tới. Cỏ trên nấm mộ nửa vàng nửa xanh, có vẻ điêu tàn. Kiều hỏi các em:
– Tại sao trong ngày Thanh Minh mà nơi đây lại vắng tanh, không có ai đến viếng thăm và đốt hương như thế hả các em?
Vương Quan bảo:
– Đây là mộ của Đạm Tiên. Em nghe nói ngày xưa nàng là một ca nhi nổi tiếng tài sắc một thời. Biết bao nhiêu người đã tìm tới nàng. Nhưng số phận má hồng quá mỏng: nàng đã chết khi tuổi nàng còn nhỏ. Cành thiên hương đã gãy vào giữa độ xuân thì. Có một người ở phương xa nghe danh tiếng nàng đã tìm tới cầu thân, nhưng khi thuyền tình ghé bến thì nghe tin nàng vừa mất. Trâm đã gãy, bình đã rơi. Buồng không lạnh ngắt như tờ. Những người trong quá khứ đã từng dập dìu lui tới vì tài sắc của nàng bây giờ đã không một ai trở lại. Dấu xe dấu ngựa của họ đã phủ rêu xanh mờ. Người khách này động lòng than khóc. Ông ta cho là mình không có duyên số gặp gỡ người đẹp, và ông quyết định làm một nghĩa cử để gieo duyên với nàng cho kiếp sau. Ông bỏ tiền ra lo tang lễ cho nàng. Nấm mồ này là do chính ông ta đắp nên. Từ ấy đến nay, nấm mồ được phú thác cho cỏ hoa. Ngày tháng qua đi, nấm mồ vẫn còn là một nấm mồ vô chủ. Vì vậy chẳng có ai tới viếng thăm, dù là vào dịp tết Thanh Minh này.
Đã có sẵn mối thương tâm trong lòng, nghe tới đây, Thúy Kiều bật khóc nức nở. Nàng nói:
– Số phận người đàn bà thật đau đớn. Thì ra cái danh từ ‘phận mỏng’ cũng là để nói lên được nỗi đau khổ, bất hạnh của rất nhiều người. Ông trời quả thật phũ phàng. Tuổi trẻ đi qua, sắc đẹp tàn phai mau chóng, khi còn sống thì phải làm vợ của thiên hạ khắp nơi, còn khi chết đi lại trở thành con ma không chồng. Bây giờ họ đi đâu hết rồi, tất cả những kẻ đã ham chuộng tài hoa và sắc đẹp, tất cả những người đã từng bỏ tiền của ra để được cùng với Đạm Tiên vui vầy loan phượng? Này các em, nếu đã không có ai đoái hoài tới số phận của Đạm Tiên thì tiện đây chị em chúng ta nên dừng lại để thăm viếng và thắp một vài nén hương trên mộ nàng. Cũng là một cách tỏ bày tấm lòng lân mẫn khi có dịp gặp nhau. Mong Đạm Tiên dưới suối vàng biết cho lòng ta.
Nói xong, Kiều bắt đầu lầm rầm khấn vái cầu nguyện. Tiếng Kiều lúc nhỏ lúc to. Rồi nàng ngồi sụp xuống trước mộ Đạm Tiên, đặt một nắm cỏ trên mộ làm lễ vật, rồi đứng dậy bước ra. Lúc ấy bóng chiều đã nhuộm vàng một vùng cây cỏ và gió chiều đã bắt đầu hiu hiu thổi làm lay động một vài bông lau gần đấy. Rút chiếc trâm sẵn có trên đầu, Kiều rạch trên da cây một bài thơ bốn câu có đủ ba vần để tặng Đạm Tiên. Tâm hồn nàng vẫn mải mê nghĩ tới số phận của người quá cố nên Kiều còn đứng lặng yên tại chỗ mà chưa chịu bước ra. Khuôn mặt tươi như hoa của nàng bây giờ đã trở nên ủ dột. Nỗi buồn xâm chiếm lòng nàng không dứt, và hai hàng nước mắt lại bắt đầu tuôn rơi. Thấy thế, Thúy Vân phản đối:
– Chị này thật là buồn cười. Nước mắt đâu mà chị có dư dả để khóc những người đời xưa như thế?
Kiều đáp:
– Số mệnh mỏng manh từ xưa tới nay chưa từng buông tha bất cứ một khách hồng nhan nào. Điều này càng nghĩ đến chị càng thấy đau xót. Nhìn người đang nằm dưới mộ mà chị phân vân không biết số mệnh của chị ngày sau sẽ ra sao?
Nghe thế,Vương Quan cũng chịu không nổi. Chàng can thiệp vào:
– Sao chị lại ăn nói lạ lùng như vậy? Mỗi lời nói của chị cứ như là để vận cái rủi của người ta vào trong con người của chị. Em không đồng ý với chị chút nào. Ở đây âm khí nặng nề, ngột ngạt. Hoàng hôn đã xuống mà đường về còn xa. Thôi chúng ta về đi thôi.
Kiều bảo:
– Những đấng tài hoa, khi chết thì chỉ có thể phách của họ tan rã mà thôi, chứ cái phần tinh anh của họ thế nào cũng còn tồn tại. Có thể là khi cảm thấy được gặp gỡ một tâm hồn tri kỷ, hồn Đạm Tiên sẽ hiển linh cho chúng ta thấy. Mình hãy chờ một chút xem sao.
Chưa ai kịp đáp lại lời nàng thì bỗng một trận gió nổi dậy làm đổ lộc rung cây ào ào. Trong gió mọi người thoáng nghe có mùi hương bay. Theo chiều gió mà nhìn, mọi người thất kinh khi thấy hiện ra những dấu giầy in trên rêu xanh. Kiều khấn:
– Thật là linh ứng! Khi tâm chúng ta tinh thành thì làm gì còn có khoảng cách giữa âm và dương nữa. Đã có mối duyên được gặp nhau, thì xin nàng đừng có phân biệt kẻ âm người dương, như thế thì chúng mình mới thật sự là chị em.
Kiều nói những lời ấy để tạ ơn Đạm Tiên đã hiển hiện cho chị em nàng trông thấy. Lòng thơ còn lai láng, bồi hồi, Kiều lại rút trâm trên đầu vạch thêm một bài thơ nữa vào gốc cây theo thể cổ phong tứ tuyệt.
Lưng túi gió trăng
Còn đang dùng dằng nửa muốn ở nán lại, nửa muốn đi về thì bỗng nghe tiếng nhạc vàng trỗi dậy càng lúc càng rõ. Nhìn ra ba chị em thấy một chàng sinh viên ngồi trên lưng ngựa, tay cương buông lỏng, đang từ từ đi tới. Ngựa chàng sắc trắng như tuyết, áo chàng màu xanh cây cỏ pha với màu non da trời. Phong thái chàng thật thảnh thơi, nửa túi gió trăng hình như có mang theo bên mình. Đi sau ngựa chàng là một vài em bé.
Từ xa, người con trai đã nhận ra được sự có mặt của ba chị em Kiều. Chàng xuống ngựa, đi bộ tới. Bước chân của chàng và sự có mặt văn vẻ của chàng như làm sáng lên cả một vùng cây cỏ. Cây cỏ lá cành đẹp lên như ngọc quỳnh ngọc giao. Vương Quan vốn đã từng quen biết với chàng liền đi ra chào hỏi và trò chuyện. Còn hai chị em Kiều thì e lệ nép vào dưới hoa, không dám tới gần tham dự. Chàng thư sinh này tên là Kim Trọng, cũng đang cư trú không xa trong vùng. Kim Trọng là con nhà quyền quý, xuất thân từ một gia đình giàu sang và danh vọng. Được trời đất phú cho óc thông minh và tài văn học, chàng là người có phong tư và tài mạo tuyệt vời. Ở nhà chứng tỏ là một người phong nhã, đi ra ngoài chàng thường nổi tiếng là một bậc tài hoa. Chàng đã từng là bạn học của Vương Quan, và đã quen thân với địa phương đất nước này. Chàng cũng đã từng nghe nói tới sự có mặt của những cô láng giềng xinh đẹp, rằng trong đền Đồng Tước hiện có cất giữ tới hai mùa xuân kiều diễm. Lâu nay chưa có cơ hội, cũng giống như vì bị cách núi ngăn sông, cho nên chàng chưa từng được gặp gỡ, chỉ biết thầm yêu trộm nhớ mà thôi. Ai ngờ hôm nay tình cờ không hẹn mà được gặp. Trong hội Thanh Minh này mà mọi người có cơ hội thỏa lòng tìm hoa đố lá, Kim Trọng đã có dịp từ xa thoáng thấy được hai bóng hồng. Một người như hoa cúc mùa thu, một người như hoa lan mùa xuân, cả hai đều mặn mà xinh đẹp. Kiều là trang quốc sắc, Kim là kẻ thiên tài, lần đầu gặp nhau, trong lòng hai người như đã có sự ngấm ngầm thỏa mãn nhưng bên ngoài cả hai còn e dè, chưa ai dám ngỏ lời nói ra cảm xúc của mình. Tiếng sét tình ái đã nổ, cả hai người đều được dìu vào trạng thái vừa mê vừa tỉnh, ráng ngồi thêm thì không tiện, mà đứng dậy đi về thì lại tiếc. Bóng hoàng hôn như làm cho nỗi buồn ly biệt càng thêm man mác. Nhưng cuối cùng rồi người ta cũng phải chia tay. Kim đã lên ngựa ra về, Kiều còn nấn ná nhìn theo. Dưới cầu, nước chảy trong veo. Bên cầu, bóng chiều còn thướt tha trên cành liễu.
Trong sổ đoạn trường có tên
Kiều về tới nhà thì mặt trời đã gác núi và hồi chiêng thu không đã vang vọng. Ngồi trong khuê phòng nhìn ra, Kiều thấy gương nga đang chênh chếch dòm vào cửa sổ. Ngoài kia trăng vàng đang lung linh trên biển cạn và ánh trăng chiếu xuống mặt sân lồng qua bóng cây. Cây hải đường lả ngọn về bức tường phía đông, những giọt sương đã gieo trên các cành xuân đang la đà trĩu xuống vì những bông hải đường đầy đặn. Một mình lặng lẽ ngắm bóng chị Hằng, Kiều để tâm hồn mình xâm chiếm bởi những nỗi niềm lo âu về số phận mình, trong tương lai và cả trong hiện tại. Nàng nghĩ: ‘Kiếp số mà mỏng manh như thế thì cuộc đời có tài hoa cách mấy cũng là một cuộc đời bỏ đi. Tội nghiệp cho Đạm Tiên biết bao. Còn người con trai kia nữa: gặp nhau để làm chi? Ta có duyên kiếp gì với người ấy hay không?’ Lòng ngổn ngang trăm mối, Kiều đem những cảm xúc trong lòng diễn bày ra trong một bài thơ tuyệt diệu. Bóng trăng đã xế bên mành, Kiều còn ngồi dựa vào cửa sổ một mình. Nàng chợt thiếp đi trong một giấc ngủ thiu thiu. Trong mơ Kiều thấy một thiếu nữ có chiều phong vận, có chiều thanh tân, đang từ từ bước tới. Mặt nàng như in sương, thân nàng như pha tuyết. Những bước chân nàng lãng đãng, khi thì như gần, khi thì như xa. Kiều vội chạy ra đón mừng và ân cần mở lời thăm hỏi:
– Em xin chào mừng chị. Chị là ai, và chị mới từ đâu tới? Hay chị là một nàng tiên nữ vừa lạc lối từ Đào Nguyên?
Thiếu nữ nói:
– Chúng ta vốn là người đồng thanh đồng khí. Mình vừa gặp gỡ nhau lúc ban chiều đó mà, chị đã quên sao? Ngôi nhà lạnh lẽo của em ở về phía mái Tây, gần dòng nước chảy, bên trên có chiếc cầu bắc ngang đấy! Em cám ơn chị đã có lòng đoái hoài tới em, đã đề tặng cho em hai bài thơ diễm tuyệt. Tài thơ của chị thật là tài ném châu gieo vàng. Em đã đem trình với bà Hội Chủ hội Đoạn Trường bài thơ ấy. Bà Hội Chủ của em tra lại sổ Đoạn Trường thì lại thấy trong sổ có tên chị. Thôi thế thì cũng đành là nhân duyên quả báo từ kiếp trước: chúng ta đều là những người cùng thuyền cùng hội, đâu phải là xa lạ gì với nhau. Đây là mười đề tài mới mà bà hội chủ đưa ra để mời chị sáng tác. Chị hãy sử dụng ngọn bút tài hoa của chị mà làm ra những câu thơ thần diệu đi.
Kiều tiếp nhận mười đề tài. Bàn tay tiên của nàng chỉ cần vẫy một cái là mười bài thơ đã được hoàn tất. Đạm Tiên tiếp lấy. Xem xong, Đạm Tiên nức nở khen:
– Phẩm chất nghệ thuật của những bài thơ này thật tuyệt diệu. Quả là cẩm tú, về ý cũng như về lời. Nếu đem so với những bài thơ khác trong tuyển tập ‘Thơ Đoạn Trường’ thì chắc chắn những bài thơ của chị sẽ chiếm giải nhất. Có ai làm thơ hay được bằng chị đâu.
Đạm Tiên nói lời từ biệt và trở gót bước ra thềm hoa, nhưng Kiều còn muốn tìm cách giữ nàng lại để trò chuyện. Bỗng một cơn gió thoảng vào làm sịch bức mành khiến Kiều tỉnh dậy. Thì ra đây chỉ là một giấc chiêm bao. Nhìn ra, Kiều chẳng thấy ai, nhưng dư hương của mỹ nhân vẫn còn như phảng phất đâu đó.
Còn lại một mình trong đêm khuya, Kiều để lòng đắm chìm trong tâm tư lo lắng và bất định. Nghĩ tới số phận mình trong tương lai, nàng bỗng thấy một niềm kinh hãi trào lên. Chắc chắn duyên phận của mình sẽ là duyên phận của hoa trôi bèo dạt. Nghĩ như thế, tâm nàng trở nên rối loạn. Nàng khóc sụt sùi. Và càng nghĩ thêm chừng thì nàng càng khóc lớn chừng đó.
Mua não chuốc sầu
Mẹ của Kiều nghe tiếng khóc, tỉnh dậy. Bà hỏi:
– Đêm khuya rồi, tại sao con không ngủ mà lại khóc hả con? Có chuyện gì khiến con khóc nhiều như thế, hỡi cành hoa lê còn đẫm sương của mẹ?
Kiều thưa:
– Con còn là phận trẻ thơ ngây, chưa biết gì nhiều về cuộc đời, ơn cha sinh mẹ dưỡng chưa từng báo đáp được một hào ly tơ tóc. Vậy mà ngày hôm qua đi chơi gặp mả cô Đạm Tiên, buổi tối về thiếp đi thì thấy ứng liền trong chiêm bao. Số Đoạn Trường là số gì hở mẹ? Tại sao người ta đã ra cho con những đề tài như thế, và tại sao con lại phải sáng tác để đóng góp vào trong một tập thơ gọi là thơ Đoạn Trường như thế? Mẹ ơi, cứ suy theo những triệu chứng trong giấc mộng thì số phận con còn ra gì nữa mai sau?
Bà Vương tìm cách khuyên giải Kiều:
– Mộng mị là hư ảo con ơi. Tại sao con lại cứ tin vào một điều hư ảo để mà mua chuốc lấy sầu não vào lòng như thế hả con?
Nghe lời mẹ khuyên giải thấp cao hơn thiệt, Kiều cũng dần dần yên tâm trở lại. Nhưng niềm lo lắng sợ hãi vừa lắng xuống thì sự tưởng nhớ Kim Trọng lại bắt đầu trỗi dậy trong lòng. CÙ nhÜ th‰ mà nàng thÙc cho ljn sáng. Ngoài cºa s°, con oanh vàng Çã vŠ thÕ thÈ và một bông tơ liễu từ góc sân nhà bay lên, vượt qua bức tường của nhà ông hàng xóm. Trước hiên, còn sót lại một ánh trăng tà thoi thóp. Kiều cảm thấy cô đơn với những tâm tư và cảm xúc của riêng nàng.
Giống hữu tình
Nếu anh đã lỡ sinh ra trong giòng giống những kẻ đa tình thì tôi đố anh dứt bỏ được dễ dàng những mối thương nhớ vấn vương trong lòng anh. Kim Trọng, từ giờ phút trở về học xá, bắt đầu tương tư Kiều. Chàng không thể nào quên được hình bóng của người đẹp mà chàng đã gặp. Càng cố quên chừng nào thì chàng lại càng nhớ tưởng chừng đó. Một ngày thương nhớ dài như cả ba năm. Cái hũ của sự sầu nhớ càng lắc thì lại càng đầy. Đám mây sầu nhớ phủ kín cả cuộc đời người học trò, bao nhiêu thảnh thơi vô tư của chàng dường như mất hết. Trong những giấc mơ liên tiếp, Kim Trọng thấy mình một mình một bóng đi về cõi bụi hồng, mong ước được gặp hình ảnh của người tiên. Chàng chẳng học hành gì được nữa. Căn phòng sinh viên của chàng đã trở nên lạnh lẽo. Cây bút lông lâu ngày không dùng tới đã se ngọn, cây đàn nguyệt chầy tháng chẳng sử dụng đã chùng giây. Trăng ngoài song đã khuyết, đĩa đèn dầu đã hao, mà chàng có học hành được thêm chữ nào đâu. Giờ nào chàng cũng mơ tưởng được gặp mặt Thúy Kiều, khắc nào chàng cũng khao khát cơ hội cùng nàng ngỏ lời tâm sự. Bức mành phía trước mỗi khi gặp gió lại như phần phật rung lên bản đàn tương tư. Hương đốt trong lư trầm chỉ gây thêm mùi thương nhớ, trà pha trong bình tích chỉ nhắc lại vị sầu tình.
Kim băn khoăn tự hỏi: nếu ta không có duyên nợ với nàng thì tại sao lại có cuộc gặp gỡ ấy? Tại sao nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành ấy đã làm cho ta mất hết sự bình an? Nhớ lại giờ phút gặp gỡ chiều hôm nao, chàng bâng khuâng muốn tìm về nơi chốn cũ. Kim vội cất bước ra. Đến nơi, chàng chỉ thấy một vùng cỏ mọc xanh rì. Nước dưới dòng trong vắt. Ngọn gió chiều như khêu gợi cơn sầu nhớ, và lau lách đìu hiu lay động trong gió như trêu chọc chàng. Những gì chàng nhớ được thì ít, mà những gì chàng tưởng tượng thì lại rất nhiều, đó là bản chất nhà văn của chàng. Rồi Kim xăm xăm bước đi hướng về phía Lam Kiều, nơi người đẹp ở.
Chàng tìm ra được nhà Thúy Kiều. Nhưng quang cảnh có vẻ quá thâm nghiêm. Tường thì cao, cổng thì đóng kín. Làm sao liên lạc được với nàng? Dù có con chim xanh đưa thư thì cũng không có nẻo cho nó bay vào, dù có ngọn lá thắm đề thơ cũng không có dòng nước mà thả xuống. Phía ngoài, những cây liễu buông mành lơ thơ, và trên cành liễu có một con chim oanh đang học nói. Giọng chim như mỉa mai đùa cợt chàng sinh viên si tình. Bốn bề cửa đóng then cài cẩn thận. Hoa rụng đầy thềm, nhưng biết tìm nàng ở đâu? Làm sao để được gặp? Kim đứng tần ngần khá lâu trước cổng, rồi bắt đầu tản bộ dạo quanh. Chàng chợt khám phá ra rằng mé sau nhà Kiều có một cái nhà không có ai ở. Hỏi thăm chàng biết rằng đây là nhà một thương gia thường hay đi buôn bán ở vùng Ngô Việt. Người ấy hiện không có mặt nơi đây vì vậy ngôi nhà này đang bị bỏ trống. Chàng bèn lấy cớ mình là sinh viên du học đang cần nhà ở và tìm cách hỏi thuê. Thuê được nhà rồi, Kim Trọng về dọn hết nào cặp sách, nào túi đàn, đem sang nhà mới. Ở đây phong cảnh khá thanh tú, có cây, có đá, có sân ngắm cảnh. Phía trên có treo một bức ‘Lãm Thúy Hiên’ nét mạ vàng còn tươi. Lãm Thúy, tại sao lại đặt tên là hiên Lãm Thúy? Đây là nơi để ngồi ngắm nhìn màu xanh biếc của da trời, hay là để ngắm nhìn một người đẹp có tên là Thúy Kiều? Kim Trọng thấy mừng thầm trong lòng. Chàng nghĩ chắc hẳn là thế nào giữa mình và Kiều cũng có duyên nợ ba sinh cho nên trời mới xui khiến mình được dọn về ở nơi đây, nơi hiên Lãm Thúy, sát cạnh nhà nàng. Cửa sổ phòng chàng bao giờ cũng được mở hé. Ngày nào chàng cũng để ý nhìn về bức tường phía đông. Sống gần sát bên nhau nhưng động thì khóa, nguồn thì phong, nên tuyệt đối chưa bao giờ chàng có cơ hội được thấy bóng hồng vào ra thấp thoáng.
Chiều hôm ấy trời mát dịu, Kim bỗng thoáng thấy dưới những nhánh anh đào dường như có bóng người thướt tha đi dạo. Chàng vội buông đàn, khoác áo đi ra. Ra tới nơi thì không còn ai nữa, trong khi mùi nước hoa vẫn còn thơm nức. Đi dạo dọc theo bức tường, Kim nhác thấy một chiếc kim thoa còn gác trên một cành hoa đào. Chàng nhón gót đưa tay lên với lấy và đem vào nhà, ngắm nghía: ‘Nếu không có duyên kiếp gì với nhau tại sao ta lại đang được cầm trong tay món trang sức quý giá này của người đẹp?’ Chàng cứ cầm chiếc kim thoa ngắm nghía mãi, không chịu đi ngủ. Chiếc kim thoa còn thoang thoảng hương trầm. Mùi trầm chưa phai, làm chàng có cảm tưởng là mình đang được gần gũi với người mình nhớ thương.
– Chiếc thoa này tự nhiên mà mình bắt được trong hư không. Biết ai là chủ nhân của nó để có thể trả về cho người ấy bây giờ? Làm sao để viên ngọc châu có dịp trở về chốn quê hương của nó là miền Hiệp Phố?
Từ phía bên kia lọt qua giọng nói của Thúy Kiều:
– Chiếc kim thoa đâu có đáng giá là bao, nhưng tấm lòng trọng nghĩa khinh tài của người quân tử thật khiến cho chúng tôi xiết bao cảm phục.
Kim nói với qua:
– Chúng ta là hàng xóm với nhau. Ra vào, cũng là người quen thuộc. Tôi đây cũng đâu phải là người nào xa lạ. Hôm qua tình cờ nhặt được một chút hương thơm rơi rụng, thật đã khiến cho tấm lòng này thỏa mãn được bao nhiêu niềm khao khát và sầu héo lâu nay. Tôi đã chờ đợi biết bao nhiêu ngày mới có được giây phút gặp gỡ hôm nay. Vậy xin tiểu thư hãy nán lại một chút để cho tôi được tỏ bày chút ít nỗi niềm tâm sự.
Nói xong Kim Trọng vội chạy về nhà lấy thêm hai chiếc xuyến vàng và một vuông khăn lụa. Chàng bắc thang vào tường và leo lên. Đứng trên thang Kim thấy quả thật là người hôm nọ, rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa. Hai người đều còn giữ ý rụt rè. Cả hai đều còn sượng sùng e ngại. Kim Trọng có dịp nhìn Kiều tận mặt, trong khi Kiều không dám nhìn thẳng lên. Nàng còn e dè cúi đầu nhìn xuống.
Đá vàng thủy chung
Một lát sau, Kim Trọng mở lời:
– Từ ngày tình cờ được gặp nhau trong chuyến du xuân đến giờ, Kim Trọng tôi luôn luôn thầm yêu trộm nhớ, mong ước có dịp được gặp lại tiểu thư. Nỗi mong nhớ đã kéo dài quá lâu. Mình hạc xương mai càng ngày càng thêm mòn mỏi. Tháng ngày như bị giam hãm trong cung mây của sự đợi chờ. Nhưng để có dịp được gặp gỡ tiểu thư và được tiểu thư đoái hoài tới thì Kim Trọng tôi sẽ sẵn sàng chờ đợi cho hết cả một cuộc đời. Cơ hội này rất quý báu đối với tôi. Tôi muốn nhân cơ hội này mà cầu xin tiểu thư ban cho một ân huệ. Tiểu thư như một đài sen, mà Kim Trọng tôi chỉ như một cánh bèo trên mặt nước. Liệu đài sen cao quý ấy có soi chiếu đến được cánh bèo hèn mọn này hay chăng?
Kiều ngần ngừ một lát, rồi mới nhìn lên, tìm lời thưa lại:
– Gia đình em là một gia đình có nề nếp. Truyền thống đòi hỏi sự sạch trong của băng tuyết và sự chân chất của rau muống, rau lang. Nếu câu chuyện mà có liên quan đến việc lá thắm chỉ hồng, thì tất cả đều phải do các đấng mẹ cha quyết định. Tuy rất thông cảm đến tấm lòng xót liễu vì hoa của chàng, nhưng em còn là phận con trẻ thơ ngây, đâu đã biết gì mà dám thưa thốt này nọ?
Kim nói:
– Cuộc đời luôn luôn thay đổi, nay trời gió nhưng mai trời lại có thể mưa. Tuổi trẻ chúng ta làm gì có nhiều cơ hội như cơ hội hôm nay? Nếu em chẳng thông cảm được cho tấm lòng ái luyến của anh mà lại cứ một mực từ khước như thế thì không những anh là người chịu thiệt thòi rất lớn, mà em cũng chẳng có được một chút nào vui trong lòng khi thấy anh thất vọng và khổ đau. Chi bằng chúng ta hãy trước hết nói với nhau những lời keo sơn gắn bó, rồi sau đó anh sẽ tìm người làm trung gian mai mối và cuối cùng cha mẹ anh sẽ chính thức tới nhà em để làm lễ cầu hôn. Anh đã qưyết định rồi. Nếu ông trời không cho phép anh thương em và cưới em thì thà anh chết chứ không thể còn thương ai được nữa. Tuổi trẻ của anh như vậy cũng sẽ như bị bỏ đi. Nếu em không mở được lượng sông biển của trái tim em ra mà chấp nhận cho tấm tình tha thiết này của anh thì không lẽ bao nhiêu công phu đeo đuổi lâu nay của anh chỉ là hoàn toàn vô ích? Và không lẽ anh phải là kẻ duy nhất phải gánh chịu mọi thiệt thòi hay không?
Kiều im lặng lắng nghe. Lời nói êm đềm của Kim như dìu nàng vào trong giấc mộng yêu thương mùa Xuân khiến cho sóng thu bắt đầu xao động trong hồ mắt nàng. Giọng còn vương chút ngập ngừng, nàng nói:
– Trong buổi gặp gỡ đầu này, em còn bỡ ngỡ và ngại ngùng nhiều lắm. Em rất cảm động về tấm lòng thiết tha của anh, và em nghĩ là em không nỡ lòng nào mà nói ‘không’ với anh được. Anh đã có lòng cưu mang thương nhớ tới em đến mức này thì em cũng xin một lòng ghi vàng tạc đá, nguyện sau này sẽ mãi mãi thủy chung với anh.
Được lời chấp nhận của Thúy Kiều, Kim Trọng thấy hả hê cả cõi lòng. Chàng liền lấy đôi xuyến vàng và chiếc khăn lụa hồng đưa ra, trân trọng trao tặng cho Kiều. Kim bảo:
– Cuộc tình duyên trăm năm của chúng ta bắt đầu từ giây phút này đây. Anh xin gởi em chút quà tặng này làm chứng tích ghi nhớ ngày chúng ta đổi trao lời nguyện ước.
Sẵn trong tay có chiếc quạt quỳ, chiếc khăn gấm, và chiếc kim thoa mà Kim Trọng vừa trao trả, Kiều đưa cả ba thứ trao tặng lại Kim Trọng.
Những lời giao ước vừa nói lên, và những món quà tặng vừa được đổi trao thì ở mái sau đã có xôn xao tiếng người. Lập tức như bông hoa rụng, như chiếc lá rơi, Kiều trở lại lầu trang, còn Kim thì đi về viện sách.
Cơ hội ngộ
Tưởng được gặp nhau như thế thì nhẹ được nỗi niềm nhớ thương, ai ngờ từ khi đá biết tuổi vàng thì tình càng thấm thía mà dạ càng ngẩn ngơ. Sông Tương Giang một giải tuy không sâu gì mấy, nhưng người thì đứng đầu sông, kẻ thì chờ cuối sông. Cả Kim lẫn Kiều còn nhớ nhau và thiếu nhau gấp bội. Một bức tường chở che sương tuyết chia hai người thương nhau thành hai thế giới. Làm sao mà có được tin tức của nhau cho thường xuyên?
Ngày thì có gió, đêm thì có trăng, màu xanh của lá đã ra nhiều, mà màu hồng của hoa đã ít lại: mùa Xuân đã bắt đầu nhường chỗ cho mùa Hạ. Gặp ngày đi ăn sinh nhật bên ngoại, cha mẹ và hai em của Kiều tưng bừng sắm sửa áo xiêm và chuẩn bị lễ vật đem về quê, để dâng lên ông ngoại một tấm lòng thành. Kiều xin phép được ở lại nhà.
Một mình trong nhà thanh vắng, nàng nghĩ đây là cơ hội để có thể đi gặp người yêu. Kiều chuẩn bị vài thức ăn ngon để đem qua tặng bạn. Rồi gót sen thoăn thoắt, nàng tiến về phía mái tường. Cách bên khóm hoa, nàng vừa lên tiếng thì bên kia dưới khóm hoa đã thấy Kim đứng đấy chờ nàng. Kim trách nàng hờ hững để cho lửa hương bấy lâu đã phải lạnh lùng.
– Anh nhớ em quá, càng nhớ thì càng sầu, và càng sầu thì lại càng thêm nhớ. Em nhìn xem, chờ đợi em mãi cho đến nỗi mái đầu anh như muốn bạc ra, nhuộm cả màu sương tuyết đây này.
Kiều bảo:
– Em xin lỗi. Em công nhận là đã tệ bạc với người bạn tri âm. Nhưng lâu nay gió bắt, mưa cầm, em đâu có cơ hội nào để sang thăm anh được? Mãi đến hôm nay được bữa vắng nhà, em mới có thể qua, để đem tất cả tấm lòng chân thành của em mà đền đáp lại tấm lòng ưu ái của anh.
Đi vòng qua ngọn giả sơn đến cuối bức tường, Kiều thấy một nẻo thông giữa hai nhà mới được rào lại. Nàng đưa tay tháo bỏ những cây rào. Mây đã rẽ để làm tỏ tường lối vào động Thiên Thai. Họ nhìn nhau, mặt người nào cũng tươi. Người con gái mở lời chúc mừng vạn phúc, người con trai nói lời hàn huyên thăm hỏi. Họ sánh vai đi bên nhau bước về hiên sách. Họ tha hồ chia sẻ với nhau những nỗi niềm thương nhớ và nói với nhau những lời gắn bó thệ nguyền.
Trong phòng học của Kim, có giá đựng bút và ống đựng thơ để trên bàn viết. Phía trên lại có treo một bức tranh tùng màu xanh nhạt, bút pháp diễn bày được nét tự nhiên của gió sương. Nhìn bức tranh tùng, Kiều không tiếc lời khen ngợi:
– Bức tranh này của anh đẹp quá, càng nhìn em càng thấy đẹp.
Kim bảo:
– Anh vừa mới vẽ xong đấy. Lạc khoản chưa có chữ nào, anh xin mời em đề lên đấy vài câu thơ cho bức tranh có thêm giá trị.
Bàn tay Kiều, như gió táp mưa sa, trong chốc lát đã đề lên được khoảng trên của bức tranh một bài tứ tuyệt. Kim khen:
– Em thiệt có tài phun châu nhả ngọc. Nàng Ban Châu đời Đông Hán và cô Tạ Đạo Uẩn đời Tấn là hai người phụ nữ nổi tiếng thông minh, học rộng, và rất giỏi thi văn. Tuy thế, anh nghĩ rằng dù họ tài hoa cách mấy thì cũng không thể nào hơn em được. Này em, nếu trong kiếp xưa mà anh không tu, phúc anh chưa dày thì tại sao trong kiếp này anh lại có diễm phúc được em yêu như thế?
Kiều nói:
– Từ lúc mới trông thấy anh lần đầu, em đã biết ngay rằng nếu anh không phải là người xuất thân từ sân Ngọc Bội thì cũng là kẻ sĩ ngự ở điện Kim Môn. Em nghĩ thế nào anh cũng có tương lai lớn, thế nào anh cũng sẽ hiển đạt, và sẽ được triều đình trọng dụng. Trong khi đó thì em lại có cảm tưởng là số phận của em rất mỏng, mỏng như một cánh chuồn chuồn. Không biết em có đủ phước đức để được trời xanh tác thành cho trong cuộc hôn nhân này hay không. Em nhớ từ năm em còn nhỏ tuổi, có một ông thầy tướng đã nói: ‘Nhìn cô bé này ta thấy tất cả anh hoa của nó đều phát tiết ra bên ngoài. Như vậy là suốt đời nó sẽ khổ đau vì số kiếp nghìn thu bạc mệnh.’ Vì vậy cho nên sau khi nhìn anh, rồi nhìn lại tự thân em, em cứ hỏi: ‘Một bên thì phúc dày, một bên là phận mỏng, cuộc nhân duyên này làm sao mà thành tựu cho được?’ Anh ơi, em sợ lắm.
Kim Trọng an ủi Kiều:
– Cuộc gặp gỡ này của hai ta há không phải là do tiền định mà xảy ra hay sao? Xưa nay, trong cuộc đời, đã có bao nhiêu trường hợp trong đó ý chí của con người thắng được cả ý muốn của ông trời. Với lại nếu có chuyện gì xảy ra, anh nguyện sẽ suốt đời trung thành với lời nguyền vàng đá, thà chết chứ không bao giờ anh phản bội.
– Anh đang tỉnh hay anh đang mê hả em? Có phải là em thật đấy không? Hay chỉ là một bóng hình trong giấc mơ của anh?
Kiều trả lời:
– Trong đêm khuya vắng vẻ, vì hoa mà em phải đánh liều đi tìm hoa. Giờ phút này nhìn nhau ta đang thấy rõ được mặt nhau. Biết đâu rồi mai mốt cảnh tượng này sẽ chỉ còn là một chiêm bao, phải không anh?
Kim mừng rỡ làm lễ rước nàng vào nhà. Chàng nối thêm một cặp nến nữa trên đài sen, và bỏ thêm trầm vào lò đào. Hai người ngồi lại, cùng thảo với nhau những lời thề nguyền trên một tờ giấy hoa tiên. Họ lấy con dao vàng cắt tóc của nhau, trộn lại, và chia hai cho nhau, mỗi người giữ một phần làm kỷ niệm. Rồi dưới ánh trăng vằng vặc giữa trời, hai người cùng đọc lên với nhau một lần những lời thề nguyện mà họ mới viết. Họ căn dặn nhau đủ lời, tỏ bày với nhau tất cả những gì sâu kín nhất trong lòng họ. Họ muốn tạc hai chữ ‘đồng tâm’ vào xương tủy của nhau. Bóng trăng lấp loáng trong những chén rượu thề nguyện mà họ đang uống. Bóng trăng chiếu qua bức bình phong có những tấm gương lấp lánh trong khi ngọn gió xuân làm lay động bức màn lụa phảng phất hương trầm.
Kim nói:
– Gió thì mát, trăng thì trong và chúng ta đang có hạnh phúc được ngồi bên nhau. Vậy mà lòng anh vẫn còn ấp ủ một niềm ao ước chưa từng được thỏa mãn. Nhưng anh nghĩ, chúng ta chưa chính thức làm lễ cưới hỏi, thì sợ lời cầu thỉnh của anh đối với em không biết là sẽ quá đáng hay không?
Kiều trả lời:
– Tờ lá thắm đã đưa chúng ta tới với nhau và sợi chỉ hồng đã buộc chúng ta lại với nhau. Chúng ta đã cùng nhau thề nguyền, đã xem nhau như những người tương tri. Ngoài chuyện hoa nguyệt ra, không có gì mà em lại còn tiếc với anh. Xin anh cứ nói.
Kim bảo:
– Lâu nay anh đã nghe đồn về tài nghệ âm nhạc của em. Cả sông cả núi cũng còn muốn lắng chiếc tai Tử Kỳ mà nghe em đàn, huống hồ anh đây là một người đã từng nhiều phen mến mộ.
Kiều mỉm cười:
– Em đàn đâu có hay gì mấy, thưa anh? Nhưng anh đã dạy thì em phải vâng lời.
Phía hiên sau có treo sẵn một cây đàn nguyệt. Vội vàng, chàng đi lấy đàn, và trịnh trọng nâng chiếc đàn lên ngang mày trước mặt Thúy Kiều.
Kiều tiếp nhận cây đàn:
– Công phu tập tành của em có bao nhiêu đâu, đâu đáng để cho anh bận lòng đến thế.
– Em đàn hay quá sức. Nhưng bản nhạc của em buồn quá, người nghe như cảm thấy phải ngậm đắng nuốt cay thế nào ấy. Tại sao em lại chọn một điệu nhạc đau buồn quá như thế, khiến cho cả kẻ đánh đàn và người nghe đàn đều phải não nề trong dạ?
Kiều đáp:
– Sáng tác nhạc buồn, anh ơi, đã trở thành cái thói tật quen thuộc của em rồi. Em đã lỡ có một tâm hồn như thế, biết làm sao? Có lẽ trời đã sinh ra em như vậy. Nhưng em sẽ vâng theo ý của anh để thay đổi từ từ, họa may sau này nhạc của em sẽ giảm bớt được chất sầu đau một phần nào hay chăng.
Nhìn Kiều, Kim thấy nàng như một bông hoa nồng thắm, nàng đẹp lên một cách lạ thường. Niềm say đắm của người con trai đã bắt đầu hiển lộ nơi đầu mày cuối mắt. Sóng tình đã làm cho con thuyền chàng xiêu xiêu, và trong cử chỉ âu yếm của người con trai đã bắt đầu có nét lơi lả.
Kiều nghiêm mặt bảo Kim:
– Em xin anh cho em nói vài lời trước đã. Chuyện trăm năm của chúng mình không phải là chuyện chơi. Em có tiếc chi với anh một đóa hoa đào tươi thắm, và vườn hồng kia đâu dám ngăn rào con chim xanh không cho nó bay vào. Nhưng trong nếp sống truyền thống tốt đẹp của nho gia, người con gái theo đạo tòng phu phải lấy chữ trinh làm trọng. Nếu chúng ta cư xử với nhau theo thói tục trên sông Bộc hoặc trong bãi Dâu mà làm chuyện không đúng lễ giáo, nếu chúng ta ăn xổi ở thì, chỉ biết thỏa mãn những đòi hỏi nhất thời thì chúng ta sẽ làm cho tan nát hạnh phúc trăm năm trong vòng một giây lát. Nói đến những mối duyên kỳ ngộ xưa nay thì có lứa đôi nào tốt đẹp bằng cặp Trương Cung và Thôi Oanh Oanh? Nhưng vì họ đã để cho cuộc mây mưa phá đổ tình vàng đá, cho nên cuộc tình của họ đã tan vỡ. Sau này, trong khi chim đang chắp cánh thành hàng, trong khi cây đang đan cành liền lại với nhau, thì trong lòng người con trai đã có sự âm thầm khinh rẻ. Nếu lò hương nguyện ước ở mái Tây chùa Phổ Cứu nơi Thôi và Trương gặp gỡ đã trở nên lạnh tanh, và duyên tình đầu thắm đó đã trở nên bẽ bàng, đó có phải là tại lỗi của người con gái? Nếu hôm nay em không bắt chước người thiếu nữ dệt cửi ngày xưa mà liệng cho chàng Tạ Côn một chiếc thoi dệt để ngăn ngừa không cho việc phi lễ xảy ra, thì sau này chính em sẽ phải hối hận vì đã không biết ngăn anh kịp lúc. Xin anh đừng vội ép liễu nài hoa. Thân mạng em còn đây thì chắc chắn mai sau có ngày em sẽ có dịp đền bồi.
Lời Kiều biểu lộ được tất cả thái độ đoan chính của nàng. Kim Trọng vì thế càng nể nang và kính trọng người yêu. Ánh trăng vừa nhạt mầu trên lá thì đột nhiên bên ngoài có tiếng người gọi cổng. Kiều vội vàng trở lại buồng thêu của nàng. Kim Trọng cũng bước qua sân đào đi ra ngoài ngõ.
Sầu chia phôi
Chiếc then hoa vừa rút để cánh cổng gỗ mở ra thì tên gia đồng nhà Kim Trọng xuất hiện. Nó đem thư nhà gởi chàng. Thư báo tin là ông chú ruột của Kim vừa mới từ trần, thi hài còn quàng tại chốn tha phương. Ông chú ruột không có con trai. Từ Liêu Dương cách trở bao nhiêu núi sông, thân phụ của Kim Trọng gọi chàng về gấp để cử hành tang lễ.
Nghe tin dữ ấy, Kim hoảng hốt. Chàng băng mình tới tận chốn đài trang của người yêu và kể hết cho nàng nghe mọi cớ sự. Chàng than thở về sự rủi ro của gia đình và về sự việc chàng phải từ giã nàng và một mình phải lên đường đi xa ngàn dặm. Kim nói:
– Anh buồn quá. Sự việc xảy ra trong khi chúng ta chưa có dịp nói hết với nhau những lời tâm tình và những lời đổi trao về duyên kiếp. Nhưng em ơi, mảnh trăng thề đêm qua vẫn còn đó, và dù xa nhau ngàn vạn dặm anh cũng sẽ không bao giờ không nghĩ tới em. Cách nhau đến ba mùa Đông, mối sầu nhớ này làm sao anh gỡ ra khỏi được? Xin em hãy hứa với anh là sẽ hết sức gìn vàng giữ ngọc để cho ở chốn chân mây cuối trời anh được an lòng.
Nghe Kim nói, Kiều cảm thấy ruột gan rối bời. Nàng chẳng nói gì được. Sau đó một hồi lâu nàng mới tìm lời nói ra những điều nàng cảm thấy trong lòng:
– Em không hiểu tại sao ông Tơ và bà Nguyệt lại đối xử với chúng mình một cách không dễ thương như thế. Chúng ta chưa kịp vui được với cái vui xum họp thì đã phải buồn với cái buồn của sự chia phôi rồi. Mình đã nặng lời thề ước với nhau, thì dù tóc trên đầu em có bạc, tấm lòng của em cũng không bao giờ dám đổi dời. Xin anh hãy có đức tin nơi em. Chờ đợi bao nhiêu năm tháng em cũng có đủ sức để đợi chờ; em chỉ đau sót nghĩ đến những lúc anh phải lận đận một mình trên con đường mưa gió. Đã cam kết một lòng một dạ với anh, em xin thề với anh là em sẽ không còn yêu ai khác. Anh ơi, chúng ta đang còn trẻ, chúng ta đang còn tháng rộng năm dài và quê hương bao la trước mặt. Em mong rằng trên con đường quan san ngàn dặm anh sẽ chẳng bao giờ quên em; chẳng bao giờ quên những giây phút gặp gỡ của chúng ta trong suốt một ngày vừa qua.
Họ dùng dằng, chưa nỡ chia tay. Nhưng mặt trời đã lên tới nóc nhà, Kim không thể chần chừ được mãi. Chàng nói lời từ biệt và nước mắt chan hòa. Mỗi bước chân của chàng là một bước làm cho khoảng không gian chia cách giữa hai người thêm lớn. Tên tiểu đồng đã vội vã giúp chàng thắng yên cương. Rồi nó quảy lên vai hành lý đã xắp sẵn. Kim và Kiều nhìn nhau. Họ chia xẻ cùng một nỗi buồn trầm trọng.
Chuyến đi thật xa. Nhìn phong cảnh quê người, Kim Trọng nhận thấy ở bên trời bóng chim nhạn đã thưa, và đầu cành liễu tiếng chim quyên dã bắt đầu dồn dập. Xuân đã đi qua, hè đã tới. Niềm thương nhớ trong lòng càng ngày càng nặng đối với người lữ hành phải trải qua bao cảnh ăn gió nằm sương. Gánh nặng của đường xa cũng là gánh nặng của nỗi niềm thương nhớ.
Đất bằng dậy sóng
Thúy Kiều còn đứng dựa vào hiên nhà phía Tây, lòng nàng còn rối bời như một cuộn tơ, và nỗi sầu thương làm cho cả chín khúc ruột nàng thắt lại. Nhìn về phía cửa sổ nhà Kim, nàng cảm thấy tất cả sự vắng vẻ, cảnh tượng như chìm trong sương khói nhớ thương: bông hoa không còn tươi thắm, còn cành liễu cũng đã xơ xác màu vàng. Kiều vừa định đi về phòng nàng thì phái đoàn đi chúc thọ bên ngoại cũng vừa về tới. Mọi người chưa kịp hàn huyên kể chuyện về chuyến đi thì bỗng đâu bốn bề cảnh sát công an ập tới, người cầm đao, kẻ cầm gậy, toàn là thứ đầu trâu mặt ngựa, xôn xao như một bầy ruồi xanh tìm tới những miếng mồi tham nhũng. Họ lấy gông gông cổ hai người đàn ông của gia đình là ông Vương và chàng Vương Quan lại. Họ lục soát, vơ vét lấy tất cả những gì có giá trị như nữ trang, vàng bạc và những thứ riêng tư của mỗi người trong gia đình để nhét vào túi tham của họ. Họ sục sạo tìm bới trong mọi ngõ ngách. Khung cửi dệt lụa họ cũng làm cho rơi rụng, các hộp đựng đồ may vá họ cũng làm cho tan tành.
Ai đã giăng bẫy? Ai đã vu cáo? Ai đã bày mưu để xảy ra cớ sự này? Hỏi ra mọi người mới biết đây là do lời khai của một gã bán tơ, mà thân sinh Kiều đã từng cho ngồi uống rượu chung, đã tưởng rằng đó là một kẻ lương thiện. Ai ngờ nó thuộc về một đảng ăn cướp, và khi bị bắt, nó đã khai bừa cho gia đình Kiều. Sai nha bây giờ lấy cớ đi bắt cướp để vào nhà Kiều ăn cướp.
Tình trạng xảy ra khiến cả nhà ngẩn ngơ, hoảng hốt. Nỗi oan như làm cho mặt đất cũng phải trồi dậy, bản án kết tội sai lầm như làm cho bầu trời mờ mịt mây đen. Gia đình ông Vương kêu ca, khóc lóc, van lạy suốt ngày, nói là mình vô tội, nhưng tai người ta vẫn làm như tai điếc, và bàn tay người ta vẫn tiếp tục phũ phàng đập xuống. Họ trói ông Vương và chàng Quan lại, lấy giây thừng treo ngược hai người lên sàn nhà. Nhìn thấy cảnh ấy dù đá cũng phải mềm, huống hồ mình chỉ là người. Trông thấy cảnh ấy mấy mẹ con đều cảm thấy rụng rời, đau đớn. Nỗi oan này chỉ có thể kêu được với trời, nhưng trời xa quá làm sao kêu thấu? Ai còn lạ gì cái thói tham nhũng của bọn sai nha? Chỉ vì tiền mà họ đành nhẫn tâm gây ra bao nhiêu điều khốc hại thảm thương như thế.
***
Làm sao để chu toàn được sinh mạng của những người thương? Làm sao cho tình cốt nhục được toàn vẹn? Gặp cơ nguy biến, mình phải biết uyển chuyển hành động để cứu nguy, đó là theo nguyên tắc ‘ngộ biến tùng quyền.’ Thúy Kiều suy nghĩ hết nước. Một bên là duyên hội ngộ, một bên là đức cù lao, một bên là tình, một bên là hiếu, bên nào nặng hơn, nàng phải xử sự làm sao cho phải? Đã đành là mình đã thề non hẹn biển với chàng, nhưng mà phận làm con, mình phải đền đáp ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ trước hết. Quyết định được điều đó trong lòng rồi, nàng đem ra nói ý định của nàng cho mọi người nghe:
– Xin mọi người đừng than khóc bàn cãi nữa. Hãy nghe con nói đây, con đã quyết định bán mình để lấy tiền chuộc cho cha con để cho cha con khỏi phải đi vào chốn tù tội.
Trong số những người láng giềng tới thăm viếng và chia buồn với gia đình họ Vương có một người tên Chung đang làm nhân viên thư ký trong quận. Ông Chung là kẻ biết thương người. Thấy Thúy Kiều có hiếu có tình thâm trọng như thế, ông cũng động lòng muốn đứng ra để sắp xếp. Tính đi tính lại trong đầu, là muốn bảo lãnh cho thân phụ Kiều khỏi đi vào vòng tù tội, thì ít ra cũng phải có ba trăm lạng vàng để lo lót đó đây mới có thể thành công. Ông ta liền chạy chọt năn nỉ để thân phụ và em trai của Kiều được phép giam tạm ở nhà công sai vài ba hôm để Kiều có thì giờ lo liệu, chứ nếu một khi đã được đưa vào chốn cửa quan thì sẽ không còn có hy vọng chạy chữa.
Thật tội nghiệp cho Kiều, tuổi còn thơ ngây mà đã phải gánh chịu những tai nạn tày trời, những cơn rủi ro như tai bay vạ gió. Nàng nghĩ: Tử biệt sinh ly là chuyện bi thảm nhất; chính hình hài mình đây mà mình còn phải hy sinh đi để cứu cha, huống hồ là một mối tình? Thân phÆn mình, nàng nghï, chÌ là thân phÆn hèn m†n cûa m¶t håt mÜa xa. Mình së Çem tÃt cä cuộc đời mình để đền đáp lại công cha sinh mẹ dưỡng, như một tấc cỏ hiến mình cho cả mùa xuân.
Đầu xanh đã tội tình gì
Ý định của nàng được đưa ra nói với những người chuyên làm môi giới. Tin này được đồn đại một cách mau chóng làm cho thiên hạ xa gần đều xôn xao. Có một bà mối thuộc vùng phụ cận tìm vào, đem tới một người khách phương xa nói là muốn đến để làm lễ vấn danh. Đứng ngoài cổng, người khách này tự xưng tên là Mã Giám Sinh, quê quán ở huyện Lâm Thanh, không xa Bắc Kinh là mấy. Tuổi ông ta đã vào khoảng trên bốn mươi, mày râu nhẵn nhụi, áo quần có vẻ bảnh bao. Người làm mối đưa ông ta vào lầu trang; lao xao đi theo ông ta là mấy người đầy tớ. Chưa ai mời mà Mã Giám Sinh đã ngồi tót lên ghế một cách sỗ sàng. Từ buồng trong Kiều bị bà mối thúc dục đi ra để người ta xem mặt. Lòng trĩu nặng vì chuyện tình duyên éo le trắc trở và nỗi đau xót vì mối oan trái lớn lao của gia đình, Kiều đi trên thềm hoa mà nước mắt cứ trào ra từng dòng với mỗi bước chân. Sượng sùng như e sương ngại gió, nhìn hoa nàng cũng thấy thẹn mà nhìn vào tấm gương nàng cũng thấy bộ mặt mình như dạn dày. Bà mối hết vén tóc rồi lại nâng tay nàng để chỉ cho ông khách là nàng đẹp đến mức nào. Này nhé, nét đẹp buồn dịu dàng như hoa cúc, dáng điệu thanh tao có khác gì hoa mai. Bà mối lại ép nàng làm thơ đề trên cánh quạt của ông khách và biểu diễn tài nghệ âm nhạc bằng chiếc nguyệt cầm cho khách nghe. Sau một hồi cân sắc, đo tài, người ta thấy đứng về mặt nào Kiều cũng xuất sắc, không mặt nào là không mặn nồng, không mặt nào là không đáng yêu. Ông khách có vẻ bằng lòng, liền tìm cách đi vào thực tế. Ông ta nói:
– Chúng tôi muốn mua ngọc đem về Lam Kiều, vậy xin cho biết sính lễ là bao nhiêu?
Bà mối nói:
– Tài sắc này đáng giá một nghìn lạng vàng. Nhưng vì nhà đây có tai nạn cho nên không dám đòi hỏi đủ số đó. Xin quý khách mở lượng mà thuơng tình, chúng tôi nào dám nài ép.
Sau một thời gian khá lâu thương lượng, cò kè bớt một thêm hai, hai bên đồng ý là bốn trăm năm mươi lượng. Một phen hai bên đã có sự thỏa thuận, chiếc thuyền xuôi theo mái chèo một cách êm ái. Hai bên trao đổi cho nhau tên họ, tuổi tác, và định ngày nạp thái vu quy. Mã Giám Sinh xin khi nạp thái xong thì được làm lễ rước dâu liền lập tức.
Đã có tiền rồi thì việc gì mà không giải quyết được? Mẹ Kiều và em Kiều nhờ ông Chung can thiệp để cho thân phụ và em trai của Thúy Kiều được có tự do tạm, và được lãnh về nhà.
Về tới nhà, biết được những gì xảy ra, ông Vương nhìn con mà ruột thắt, gan bào, trái tim rướm máu. Ông nói:
– Nuôi con là chỉ mong muốn con có một tương lai, sau này được trao tơ đúng lứa và gieo cầu đúng nơi. Ông trời ơi, tại sao ông khắc nghiệt quá chừng như thế? Ai đã vu oan giá họa để cho người cùng một gia đình phải xa nhau? Tấm thân già này của ta đâu còn ngại gì những búa rìu mà người ta bổ xuống? Nhưng mà đày đọa con trẻ như thế thì oan khốc cho tuổi già này biết bao nhiêu? Trước sau thì cũng chỉ một lần chết. Thà ta chết trước để khỏi phải trông thấy những điều thương tâm xảy ra.
Ông Vương khóc ròng khi nói lên mấy câu ấy. Trong cơn tuyệt vọng, ông đã muốn liều mình đập đầu vào bức tường vôi để tự tử. Thấy thế, mọi người đều vội vàng can thiệp, người thì cố ôm giữ ông lại, người thì tìm cách khuyên nhủ chăm sóc ông.
Thúy Kiều tìm hết mọi lời to nhỏ để khuyên can cha. Nàng nói:
– Có đáng gì một chút phận gái thơ ngây mà đến nỗi cha phải liều mình như thế? Mẹ cha sinh dưỡng, con chưa từng có một cơ hội nào cả để đền đáp ơn sâu. Đã không có cơ hội của cô Đề Oanh dâng thơ lên vua Hán để xin thế tội cho cha, thì không lý con lại không làm được việc của nàng Lý Ký ngày xưa bán mình để nuôi cha mẹ? Cha của con càng ngày tuổi hạc càng cao, mà một thân cây phải gánh vác biết bao là cành. Nếu cha có mệnh hệ nào thì chắc cả bốn mẹ con con đều chết hết. Xin cha cứ xem là cha chưa bao giờ sinh ra con. Nếu cha không làm được như vậy thì cơn bão tố này sẽ làm tan tành hết cả gia đình ta. Thà rằng hy sinh một mình con mà cả nhà được thoát: hoa dù có bị rã cánh mà lá vẫn còn xanh tốt trên cây. Xin cha thương xót chúng con mà đừng nghĩ quanh nghĩ quẩn nhiều quá, điều đó sẽ đưa tới sự thiệt mạng của cha và sự tan nát của cả gia đình.
Nghe lời nói hơn thiệt của Kiều, ông Vương dịu lại. Trong khi mọi người đang nhìn nhau với nỗi niềm thương cảm giọt ngắn giọt dài thì bên ngoài phái đoàn Mã Giám Sinh đã tới. Đây là lúc phải ký hợp đồng trên giấy và trao nhận số tiền bốn trăm năm chục lạng vàng. Hỡi trăng già độc địa, tại sao se giây mà không biết phân biệt, cứ bạ đâu buộc đấy như thế! Tại sao một cô gái tài sắc như Thúy Kiều lại lọt vào một kẻ tầm thường như Mã Giám Sinh? Nhưng đã có tiền trong tay, người ta có thể đổi trắng thay đen một cách dễ dàng. Ông Chung đã đứng ra để lo liệu và chạy chọt. Một khi ba trăm lạng vàng đã được đặt lên làm lễ vật, thì bản án được xóa, và phụ thân của Kiều được trả tự do.
Việc nhà vừa mới được giải quyết xong thì có tin báo là sáng ngày hôm sau đã có lễ rước dâu. Một mình thức bên ngọn đèn khuya, Kiều âm thầm khóc. Áo nàng ướt hết vì những giọt tủi, tóc nàng xõa cả xuống vì những niềm đau. ‘Phận mình thì như vậy cũng đành, nhưng nghĩ tới tấm lòng tha thiết bấy lâu của chàng Kim thì thực tình ta chịu không nổi. Chàng đã để ra bao nhiêu tâm huyết và thời gian trong công trình đeo đuổi. Tại vì ta đã đáp ứng lại một cách tha thiết cho nên cuộc đời của chàng phải đến nỗi dở dang. Chén rượu thề còn chưa ráo mà ta đã phải phụ lời nguyền. Kim ơi, từ Liêu Dương xa xôi cách bao nhiêu sông núi anh có biết rằng người chịu trách nhiệm làm chia rẽ đôi ta chính là em đây hay không? Thôi thế là hết! Bao nhiêu thề nguyện, bao nhiêu hứa hẹn duyên nợ, tất cả đã không còn gì nữa trong kiếp này. Em chết đi mà hương thề chưa dứt thì em sẽ đầu thai làm kiếp trâu kiếp ngựa để đền bù lại cho anh trong những kiếp sau. Nợ tình chưa trả được cho anh, khối tình em mang xuống dưới tuyền đài cũng sẽ không thể nào tan được!’
Nỗi niềm tâm sự của Kiều làm cho Kiều trăn trở suốt đêm. Đĩa đèn dầu đã cạn, mà nước mắt nàng vẫn tiếp tục rơi cho đến khi khăn tay nàng ướt đẫm.
Trăm nghìn gởi lạy tình quân
Thúy Vân chợt tỉnh. Nghe tiếng chị khóc, nàng đi đến bên ngọn đèn dầu hỏi thăm và cố tìm hiểu. Nàng nói:
– Tội cho chị quá. Một mình chị phải gánh chịu nỗi oan trái cho cả gia đình. Ông trời tạo ra nhiều chuyện dâu biển éo le, thật không thể nghĩ lường được. Nhưng chị ơi, chắc chị còn có một nỗi niềm tâm sự gì riêng tây mà chưa nói ra được, khiến chị phải ngồi thức một mình suốt cả năm canh thư thế, phải không chị?
Kiều bảo:
– Em ơi, lòng chị đang tràn đầy những nỗi niềm thổn thức. Có một mối tơ duyên còn vương vấn mà chị gỡ chưa xong. Nói ra thì cảm thấy thẹn thùng, mà giữ kín trong lòng thì lại phụ lòng người ấy. Chị muốn nhờ em giúp chị giải quyết vấn đề này. Nếu em có lòng chịu giúp chị thì xin em hãy ngồi lên cho chị lạy hai lạy rồi chị mới nói. Từ khi gặp chàng Kim, chị đã yêu chàng, và không có ngày nào đêm nào là không nghĩ đến chuyện chén thề quạt ước. Hai bên đã nặng lời thề nguyện với nhau. Nhưng cơ sự đã xảy ra như thế này cho gia đình mình, thì gánh tương tư như thế đã nửa chừng bị gãy. Chỉ có một cách cứu chữa được tình trạng là nhờ em thay chị nối lại sợi giây đàn đã đứt. Cơn sóng gió vừa xảy ra cho gia đình mình, ai mà biết trước được? Làm sao chị có thể xử sự cho trọn vẹn được cả vừa bên tình và bên hiếu? Em ơi, ngày xuân của em vẫn còn dài, em hãy vì tình máu mủ của chị em ruột thịt một nhà mà thay chị làm cho tròn lời thề sông núi ấy. Nếu được như vậy thì dù thịt của chị có nát xương của chị có mòn thì ở dưới suối vàng hồn chị cũng hãy còn được thơm lây. Đây là những chiếc xuyến vàng và vuông lụa mà chàng Kim đã trao tặng. Và đây là tờ giấy hoa tiên mang lời nguyền ước của hai người đêm ấy. Nếu sau này em được tác hợp với chàng thì tình duyên ấy phải đi chung với kỷ vật này. Một ngày kia khi cuộc tình duyên này được thành tựu thì chắc chắn em và chàng sẽ không quên được người có số mệnh mỏng manh là chị. Lúc ấy tuy không còn chị nữa, nhưng những kỷ vật này sẽ dùng làm chứng tích của lòng chị mong cầu. Em nhìn xem đây: đây là những phím đàn và những phần còn lại của những mảnh hương đã được đốt lên để nói lời thệ ước. Sau này mỗi khi chàng và em có dịp đốt những mảnh hương này và sử dụng những phím đàn này thì xin hai người hãy để ý một chút: nếu nhìn ra ngọn cỏ lá cây mà thấy gió thổi hiu hiu thì biết là hồn chị đã về. Hồn chị vẫn sẽ còn mang nặng lời thề nguyền, thì tấm thân bồ cây liễu này của chị dù có phải bị nát tan thành tro bụi chị vẫn không quên nghĩ đến chuyện đền đáp lại mối ân tình trúc mai ấy. Lúc đó biết rằng chị đang ở chốn dạ đài, âm dương cách biệt, không chuyện trò được với nhau thì xin em và chàng hãy rảy cho một chén nước lạnh để làm mát dịu linh hồn của người đã chết vì oan ức. Bây giờ trâm đã gãy, bình đã tan, làm sao nói ra được hết muôn ngàn niềm ân nỗi ái? Anh Kim ơi, cho em gởi lại anh một trăm cái lạy, một ngàn cái lạy. Cuộc tình của chúng ta chỉ ngắn ngủi có chừng ấy mà thôi! Tại sao thân phận của em lại bạc trắng như vôi như thế? Số phận của em là số phận của hoa trôi bèo dạt, bây giờ đây tất cả đều đã trở thành lỡ làng. Anh Kim ơi! Anh Kim ơi! Thôi thế là hết, thôi thế là em đã phụ tình anh từ giờ phút này đây!
Nói ra được hết những lời vừa nói, ngất say niềm tuyệt vọng, Kiều ngã lăn ra bất tỉnh, thân thể và hai tay nàng lạnh ngắt như đồng.
Ông bà Vương nghe tiếng hét của Kiều chợt tỉnh dậy. Cả nhà xúm lại, xôn xao trong ngoài, kẻ thì lo đi lấy nước, người thì chạy tìm thuốc men, làm mọi cách để vực Kiều tỉnh dậy. Nàng đã tỉnh, nhưng lệ còn ướt đẫm trên hai má. Ông bà Vương hỏi:
– Con ơi, con ơi, tại sao lại xảy ra chuyện lạ lùng đến thế? Tại sao mà con phải đến nông nỗi này?
Kiều vẫn nức nở khóc. Nàng không nói được lời nào. Lúc bấy giờ Thúy Vân mới nói cho cha mẹ biết về tất cả cớ sự và nông nỗi. Và nàng kết luận:
– Đây là chiếc kim thoa và đây là mảnh giấy hoa tiên có ghi lời thệ nguyện của hai người.
Ông bà Vương bảo:
– Như vậy là cha đã làm lỡ làng duyên phận của con. Nhưng con ơi, con đừng đau khổ quá, vì em gái con đây sẽ có thể thay con đền bù lại sự mất mát này cho chàng. Trời đất có hay cho không? Ai đã làm cho rơi kim rụng cải, để cho đứa con bé bỏng của tôi phải chịu kiếp bèo nổi mây chìm? Con ơi, những lời con căn dặn, cha mẹ và các em con sẽ nhất thiết làm theo, không dám để cho sai chạy một tấc, một ly nào.
Thúy Kiều lạy xuống tạ ơn cha mẹ và hai em. Rồi nàng thưa:
– Nếu cha mẹ và hai em đền đáp được cho êm xuôi tình nghĩa này đối với chàng Kim Trọng thì dù con có phải suốt đời làm thân phận con ở, hoặc dù con có chết bỏ xương trắng ở quê người con cũng không còn quản ngại.
Trà mi một đóa
Đêm đen đã chứng kiến bao nhiêu nỗi thảm sầu, nhưng trống canh từ phía lầu Nam đã dồn dập báo rằng một ngày mới sắp đến. Kiệu hoa đã được khiêng đến trước cửa ngoài. Nhạc rước dâu đã bắt đầu trỗi dậy, báo hiệu giờ ly biệt. Kẻ ở người đi ai cũng cảm thấy đau lòng. Giọt nước mắt rơi như thấm cả vào lòng đá, sợi tơ lòng kéo ra như làm nát ruột cả con tằm. Ngày biệt ly lại là ngày mây kéo tối sầm cả trời đất. Ngọn cỏ thì dầu dầu héo hắt, cành cây thì đẫm ướt giọt sương. Người ta rước Kiều về ở tạm nơi một quán trọ, và để nàng ở một mình trong ấy, bốn bề phong tỏa. Chưa bao giờ từng lâm vào tình trạng như thế, Thúy Kiều vừa thẹn thùng vừa bỡ ngỡ. Nàng cảm thấy xót xa khi xét lại lòng mình. Nàng than thở: ‘Thân thế của mình như vầy mà lại rơi vào tay một người quá ư phàm tục. Vậy là công phu giữ nắng gìn mưa lâu nay vì chàng cũng trở thành uổng phí. Nếu biết rằng thân phận sẽ ra thế này thì chi bằng trước đây ta đã dâng đóa hoa đào phong nhị cho người tình chung. Ai là kẻ đã ngăn đón ngọn gió mùa xuân? Ai đã làm cho kẻ đi người ở đều đau lòng xót dạ? Dù trong tương lai chúng mình còn có cơ hội gặp gỡ lại thì anh ơi, thân em còn có ra gì nữa? Đã sinh ra kiếp long đong thì làm sao mà làm chủ được thân phận má hồng của mình?’ Trên mặt bàn có sẵn một con dao. Kiều đưa tay với lấy, gói lại trong một chiếc khăn và dấu vào trong tay áo. Nàng tự nhủ: ‘ Nếu sau này lỡ nước có đến chân, tai họa hiểm nhục dồn tới, thì ta đã có con dao này mà kết liễu cuộc đời mình.’
Đêm càng lúc càng về khuya. Một mình trong phòng the, Thúy Kiều có lúc như say, có lúc như tỉnh. Nàng không biết rằng anh chàng Mã Giám Sinh ấy vốn là một gã phong tình quen thói ăn chơi trác táng. Ăn chơi quá mức và gặp phải thời rủi ro, Mã liền quyết định tìm kiếm cách sinh sống ngay trong giới hoa nguyệt. Trong giới lầu xanh anh ta lại gặp một người tên là Tú Bà. Mụ ta trước cũng là kỹ nữ, bây giờ tuổi già không còn duyên sắc. Tú Bà và Mã Giám Sinh, một bên mạt cưa giả làm bột cám, một bên mướp đắng giả làm dưa leo, cả hai đều là phường buôn hương bán phấn. Họ chung vốn mở một ngôi hàng, làm ăn lâu năm đã có kinh nghiệm. Họ đi khắp nơi thôn quê và phố chợ kiếm và dụ dỗ những cô gái nghèo còn trẻ đem về, nói là để nuôi làm con ở nhưng kỳ thực là để dạy nghề ăn chơi. Rủi may âu cũng là số trời, Kiều đã bị lọt vào cái ổ ấy. Một thiếu nữ xinh đẹp mơn mởn tợ một cành hoa như Kiều mà lại bị giao bán vào chiếc thuyền của một kẻ lái buôn. Nàng đã rơi vào lưới của Tú Bà và Mã Giám Sinh: sính nghi thì chỉ được trả có 450 lạng, và lễ rước dâu thì tổ chức cấp tốc. Mã Giám Sinh cảm thấy mừng thầm trong bụng. Gã thấy rằng cây cờ đang nằm trong tay gã. Càng ngắm nhìn vẻ đẹp ngọc ngà của Kiều thì gã càng thấy lòng mình say đắm. Sắc của nàng đáng được gọi là sắc nước, hương của nàng đáng được gọi là hương trời. Nụ cười tươi thắm của nàng ta có thể gọi là nụ cười đáng giá ngàn vàng, điều ấy thật không ngoa. Rước Kiều về tới lầu xanh thì trong giới vương tôn quý khách ai cũng sẽ tranh nhau để được chiếm đoạt nàng trước nhất. Ít nhất cũng phải trả 300 lạng vàng mới có quyền bẻ hoa, như vậy là ngay lần đầu Tú và Mã đã lấy lại được vốn. Còn sau đó là cứ tiếp tục có lời dài dài. Nhưng trong giờ phút này đây khi món ngon đã được đưa kề tới miệng, Mã Giám Sinh rất muốn chiếm đoạt xác thân của Kiều. Nhưng gã lại sợ là nếu làm như thế thì lại đánh mất vốn liếng của nhà chứa: ‘Khi Kiều đã mất trinh thì còn ai chịu trả giá cao để được có cái thú bẻ hoa?’ Nhưng gã lại suy nghĩ thêm: ‘Đào tiên đã nằm trong tay kẻ phàm tục mà mình không biết lợi dụng thời cơ thì thật là uổng quá. Trên đời có biết bao kẻ được xem là biết chơi hoa thật sự? Có bao kẻ chơi hoa biết được cái quý cái đẹp của hoa? Thôi ta cứ liều mạng đi. Sau khi chiếm được Kiều ta sẽ tìm những phương thức giả tạo để đánh lừa người tới sau, để cho họ có cảm tưởng họ là người đầu được động tới nó. Những chất như nước vỏ lựu và máu mào gà có thể sử dụng để đánh lừa những kẻ dại dột, và biết đâu họ cũng có thể trả giá mà ta đưa ra. Nếu lỡ mà mụ Tú kia biết được thì ta chỉ cần quỳ một buổi xin tha tội, thế nào mụ ta cũng sẽ tha thứ. Với lại ở đây đường xá xa xôi, nếu ta không hành xử như một chú rể thật sự thì người ta sẽ có thể nghi ngờ rằng đây không phải thật sự là một đám cưới’. Nghĩ như thế, Mã Giám Sinh thực hành ngay. Thương tiếc thay cho một đóa trà mi mơn mởn: con ong bây giờ đã biết cả đường đi lẫn lối về. Mã Giám Sinh là một kẻ vũ phu, không biết thương gì đến ngọc, không biết tiếc gì đến hương, vì vậy Kiều đã phải trải qua một cơn nặng nề mưa gió. Sau giấc mộng kinh hoàng ấy của một đêm xuân, Kiều nằm trơ một mình dưới những ngọn đuốc tân hôn, vì Mã Giám Sinh đã bỏ đi ra ngoài ngay sau đó. Kiều khóc như mưa, một phần vì căm giận, một phần vì buồn tủi cho thân phận mình. ‘ Thật là một kẻ thuộc giòng giống tanh hôi. Thế là hết, còn đâu nữa là thân thế và danh dự của một khách má hồng. Có còn chi nữa để mà mong mà đợi? Đời một người con gái đến đây là chấm dứt.’
Một xe trong cõi hồng trần
Căm giận và tủi hờn vì thân phận, Kiều lấy dao ra tính kết liễu cuộc đời mình. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, nàng biết là làm như thế có hại. ‘Mình chết thì được rồi, nhưng còn cha mẹ thì sao? Nếu sau khi mình chết mà họ sinh sự kiện cáo thì có phải là mình sẽ làm lụy cho đấng song thân hay không. Chết trước hay chết sau cũng là một lần chết mà thôi, chi bằng ta hãy đánh liều đợi xem tình thế ra sao đã.’ Còn đang suy nghĩ đắn đo thì tiếng gà gáy sáng đã sôi lên bên phía mái tường. Trong sương sớm tiếng còi đã vọng lên lầu mai: Mã Giám Sinh ra lệnh phải khởi hành lập tức. Đau lòng thay giờ phút tiễn biệt. Vó câu khấp khểnh, bánh xe ghập ghềnh. Đi được mười dặm, đoàn xe dừng lại ở một quán trường đình. Ông bà Vương đã đi theo được tới đây, có cả người nhà gánh theo tiệc tiễn hành. Chủ và khách bày tiệc ăn uống thù tạc với nhau bên ngoài. Bên trong chỉ có hai mẹ con Kiều. Nước mắt tầm tã, nàng kể hết nỗi lòng với mẹ: ‘Con rất lấy làm hổ thẹn mẹ ơi. Sinh ra làm phận thơ đào, lâm vào tai nạn này, biết kiếp nào mới đền trả được ơn nghĩa mẹ cha? Duyện phận con lại lỡ làng, nước trong đã bị bùn đen quấy lên vẩn đục. Một tấm lòng chung thủy con không bao giờ dám quên, xin nhờ mẹ cha nhắn lại với chàng Kim Trọng. Trong mấy ngày qua, con để tâm quan sát và có linh tính là con đã bị rơi vào bẫy của một bọn bợm già. Mã Giám Sinh là một người không có tư cách đàng hoàng. Anh ta có khi nào có mặt ở nhà đâu, và mỗi khi cần phải đi vào thì hai mắt lấm lét, và mỗi khi đi ra thì hai chân vội vàng. Cách xưng hô ăn nói của thầy tớ họ cũng rất hàm hồ và có khi cộc lốc. Có khi anh ấy gọi bà tú là mợ, có khi thì gọi là mụ. Bọn đứa ở thì có khi gọi con là dì, có khi lại gọi là chị, có vẻ khinh xuất, thiếu hẳn lễ độ. Anh chàng này không có tư cách của một con người thanh lịch quý phái. Ngắm cho kỹ thì như là một người lái buôn. Chết con mất rồi, mẹ ơi. Thân phận con rồi đây nếu sống thì sống nhờ đất khách, và khi chết thì sẽ bị chôn ở quê người, hy vọng gì có ngày trở lại cố hương.’
Nghe con nói như thế, bà Vương cảm thấy nỗi oan ức chất chứa đầy trái tim, bà những muốn ngửa mặt lên trời mà kêu cho thấu. Hai mẹ con còn chưa nói được với nhau bao nhiêu lời tâm sự thì bên ngoài người ta ra lệnh khởi hành.
Trái tim trĩu nặng niềm thương xót đối với con gái, ông Vương đứng bên yên ngựa của Mã Giám Sinh hết lời năn nỉ: ‘Em nó thân phận liễu yếu đào tơ, vì phận rủi của gia đình mà phải buộc lòng bước đi làm thân lẽ mọn. Từ đây nó sẽ phải trải qua cảnh nắng mưa thui thủi một mình bên chân trời góc biển, xa cách gia đình thân thuộc. Rất mong người quân tử đóng được vai trò của cây tùng cao có bóng mát, che chở được cho phận gái như một giây leo có thể leo lên được ngàn tầm mà không bị tuyết sương làm cho héo úa.’ Mã Giám Sinh thưa lại: ‘Cuộc nhân duyên này đã được định trước một cách mầu nhiệm, cho nên hai đứa chúng con mới được sợi dây đỏ buộc lại với nhau. Mai sau nếu con có ăn ở tệ bạc với Kiều, thì gương nhật nguyệt cũng như dao quỷ thần vẫn còn đó: con sẽ bị trừng phạt, xin nhạc gia đừng lo.’ Mã vừa nói dứt lời thì như gió giục, mưa vần, chiếc xe của Kiều đã lăn bánh chạy và chẳng mấy chốc đã bị cuốn đi và mất hút trong cõi bụi hồng.
Tóm lược
Tú Bà và Mã Giám Sinh mua Kiều từ Bắc Kinh đem về Lâm Tri, chứ không phải đem về Lâm Thanh. Đi một tháng trời mới đến. Kiều khám phá ra rằng chỗ người ta mang Kiều tới là một chốn lầu xanh. Sau khi biết được Mã Giám Sinh đã phá trinh Kiều, Tú Bà giận quá la mắng và rút roi sắp sửa đánh Kiều. Kiều rút dao ra tự tử. Vết thương quá nặng, Kiều nằm thiêm thiếp. Trong khi hôn mê, Kiều nằm mơ thấy Đạm Tiên. Đạm Tiên nói: ‘Chị không trốn được nợ đoạn trường đâu, chị phải sống cho hết kiếp này đã. Em sẽ đợi rước chị dưới sông Tiền Đường sau khi chị đã trả hết nghiệp.’ Thấy Kiều có thể chết, Tú Bà sợ quá vội tìm thầy cứu chữa và khuyên Kiều nên tịnh dưỡng cho mau lành. Bà hứa là sẽ không ép Kiều tiếp khách và sẽ tìm cơ hội gả Kiều cho người tử tế. Kiều bình phục thì có một chàng tên Sở Khanh, giả làm kẻ hào hiệp tổ chức cho Kiều đi trốn. Kiều không ngờ đây là mưu của Tú Bà. Trên đường đi trốn, Sở Khanh bỏ Kiều giữa rừng. Tú Bà rượt theo bắt Kiều về, hung hăng đánh phạt. Kiều đau quá phải hứa chấp nhận tiếp khách thì Tú Bà mới tha cho. Thúy Kiều nói: ‘Cái tính ưa trinh bạch của con, từ nay xin chừa.’ Tú Bà bèn dạy cho Kiều cách hành nghŠ thanh lâu.
Một thời gian sau có chàng Thúc Kÿ Tâm, từ Vô Tích ở Triết Giang theo cha về Lâm Tri mở ngôi hàng buôn bán. Thúc còn là sinh viên, có vợ tên là Hoạn Thư, con quan thượng thư bộ Lại. Thúc mê Kiều, bỏ tiền chuộc Kiều ra sống chung. Cha của Thúc biết được, buộc Thúc trả Kiều về thanh lâu. Thúc không chịu. Giận quá cha Thúc đưa Thúc ra tòa. Quan phủ ra lệnh cho Kiều trở về lầu xanh. Kiều thưa rằng nàng sẵn sàng chịu hình phạt hơn là phải bị bắt buộc phải trở về thanh lâu. Quan cho gông Kiều lại. Thúc Sinh khóc. Quan hỏi, và biết được Kiều cũng là người biết điều và lại có tài văn chương. Quan ra đề tài cái gông cho Kiều vịnh. Quan khen thơ hay và khuyên thân phụ Thúc Sinh nên chấp nhận Kiều là con dâu cho yên nhà yên cửa.
Sống được với Thúc Sinh một năm, Kiều tính chuyện lâu dài, khuyên Thúc về Vô Tích nói hết sự thực với người vợ cả để mọi sự êm xuôi và để nàng được chính thức chấp nhận là vợ lẽ của Thúc. Thúc về thăm, nhưng không chịu nói. Ai ngờ Hoạn Thư đã biết cả. Hoạn tổ chức sai hai tên côn đồ là Ưng và Khuyển đi đường hải đạo về Lâm Tri bắt cóc Kiều đưa về Vô Tích làm con hầu cho mẹ là phu nhân của quan thượng thư. Kiều bị đánh bầm tím người vì khi được tra hỏi nàng đã thật thà nói hết tất cả những gì đã xảy ra. Nhờ bà quản gia hiền lành chăm sóc, nàng mới khỏi chết sau trận đòn đó. Kiều được ghép vào giới con ở, mặc áo xanh và được đặt tên là Hoa Nô.
Những chuyện trên xảy ra trong khi Thúc Sinh còn trên đường về Lâm Tri. Thúc về tới thì được cha báo tin là nhà đã cháy và Kiều đã chết. Bọn côn đồ trước khi bắt cóc Kiều đã liệng một thây người vô chủ bên sông vào nhà và đốt nhà sau khi bỏ đi. Ai cũng tưởng là Kiều đã chết cháy. Gia đình Thúc đã tổ chức đám tang cho Kiều.
Vài tuần sau, Hoạn Thư xin mẹ cho Kiều về nhà mình giúp việc. Từ Lâm Tri về Thúc Sinh vào nhà thì Hoạn Thư sai Kiều ra lạy chào với tư cách một con ở. Hai bên được đặt vào cái thế không thể nhận nhau và chào hỏi nhau. Hoạn Thư hành hạ Thúy Kiều và Thúc Sinh bằng cách bắt hai người phải đóng vai trò con ở và chủ nhà trong một thời gian khá lâu. Hành hạ hai người như thế để bõ những cơn ganh tức đau ngầm đã gánh chịu xưa nay.
Gác kinh viện sách
Sớm khuya, Kiều làm công việc hầu hạ của một đứa thị tỳ ở chốn dinh thự cao sang. Một hôm trông thấy mặt Kiều ủ rũ, Hoạn Thư lên tiếng tra hỏi. Kiều lựa lời giải thích:
– Sở dĩ con có nét mặt rầu rĩ là tại vì con đang nghĩ tới số phận không may của mình.
Hoạn Thư nói với Thúc Sinh:
– Em nhờ anh điều tra giúp em về trường hợp con Hoa Nô này. Anh bảo nó khai cho thật tình đi nhé.
Thúc Sinh đang khổ đau cực kỳ, gan ruột chàng đã tan nát như đang bị bào ra, thế mà chàng cũng giả bộ bày cách tra hỏi Kiều. Một mặt chàng đã chẳng dám nói sự thật với vợ, một mặt khác chàng lại chẳng nỡ nhìn cảnh Kiều bị đày đọa. Chàng chỉ sợ làm liên lụy đến Kiều để cho Kiều lại bị hành hạ thêm. Được Thúc Sinh hỏi, Kiều quỳ trước sân hoa dâng lên một tờ cung khai về thân phận nàng. Thúc nhận lấy tờ khai và trao cho Hoạn Thư. Đọc xong tờ cung khai của Kiều, trong lòng Hoạn Thư dường như có phát sinh ít nhiều thương xót. Nàng trao tờ cung lại cho Thúc Sinh:
– Xét tờ cung khai này thì tình Hoa Nô cũng đáng thương, mà tài Hoa Nô cũng đáng trọng. Nếu con này mà có số phận giàu sang thì với tài sắc đó, có thể cũng sẽ có người đúc được một chiếc nhà vàng cho nó ở. Nhưng số phận nó lại là số phận hữu tài mà vô duyên. Thật cũng đáng thương cho số kiếp long đong của nó trong biển trần chìm nổi.
Thúc Sinh nói:
– Đúng như lời hiền thê đã nói. Kiếp số má hồng phận mỏng từ xưa tới nay luôn luôn là thế. Vậy thì em cũng nên đem lòng từ bi mà đối xử nhẹ tay với nó một chút.
Tiểu thư nói:
– Trong tờ cung khai này, Hoa Nô có ý muốn xin đi xuất gia. Có lẽ ta cũng nên chấp nhận lời yêu cầu này của nó, để nó có cơ hội bước ra khỏi cái vòng hệ lụy. Trong vườn nhà ta có gác Quan Âm, có cây trăm thước, có hoa bốn mùa, có cả cổ thụ, có cả sơn hồ; thôi ta hãy cho nó xuống tóc ra đó giữ chùa và chép kinh.
Một buổi sáng nọ trời mới rạng đông, mọi người chuẩn bị hoa hương và năm thức cúng dường để đưa Kiều ra trước Phật đường làm lễ xuất gia. Kiều được cởi chiếc áo xanh của người thị tỳ ra và mặc vào chiếc áo nâu sồng của một ni cô. Nàng được đặt pháp danh là Trạc Tuyền. Tiểu thư họ Hoạn cung cấp đầy đủ các phí tổn về dầu đèn, trầm hương và cử hai tên thị nữ khác tên là Xuân và Thu để phụ tá cho sư cô mới trong việc hương đèn và bái sám.
Từ khi được ra ở Quan Âm Các ngoài vườn hoa, có những lúc Kiều có cảm tưởng như là đã được lánh xa cõi bụi hồng của nhân gian và tới gần với rừng trúc tím của đức Quan Âm bồ tát. Nghĩ cho kỹ, nàng thấy nàng không còn hy vọng gì nữa về cuộc tình duyên với Thúc Sinh. Cầu cho đừng bị nhục trong cảnh thẹn phấn tủi hồng đã là may mắn lắm rồi. Ở chốn Phật đường ni cô Trạc Tuyền tìm mọi cách để vùi lấp thảm sầu, nàng cố quên đi những niềm tủi và những nỗi hờn của mình bằng cách chép kinh và tụng niệm. Nghĩ ra thì giọt nước cành dương của đức Quan Âm cũng có công năng tưới tắt những ngọn lửa phiền não đang bừng cháy trong lòng. Từ khi Kiều mặc vào chiếc áo nâu sồng của người tu, thấm thoát mà mấy mùa trăng đã đi qua. Sống ở chốn cửa thiền thì theo nguyên tắc phải giữ gìn giới luật và uy nghi cho nghiêm mật. Nhưng đó chỉ là vấn đề hình thức. Khi có mặt người bổn đạo lui tới thì sư cô Trạc Tuyền vẫn nói vẫn cười, nhưng khi vắng người, sư cô vẫn thường rơi lệ khóc than cho thân phận. Thật là oái oăm. Phía bên này thì Kiều ở trên gác kinh, phía bên kia thì Thúc Sinh ngồi trong viện sách. Tuy ở gần nhau trong gang tấc mà cả hai đều cảm thấy bị xa cách nhau đến ngàn trùng núi sông.
Ấy mới gan, ấy mới tài
Một hôm trong khi Thúc Sinh còn đang ngậm ngùi than thở một mình, thấy không có một cơ hội nào để đi thăm Kiều, thì hôm đó tiểu thư lại có việc phải đi về thăm mẹ. Thừa cơ hội này Thúc lẻn ra vườn hoa, xăm xăm đi về Quan Âm Các. Gặp Kiều chàng khóc lóc kể lể với Kiều những nỗi niềm đau khổ của mình, nước mắt chàng thấm ướt cả vạt áo xanh của người thư sinh.
– Xin lỗi em, lâu nay anh đành phải cam chịu là bạc bẽo. Chút Xuân đã để cho một mình em phải gánh chịu những khổ đau uất ức. Anh là con trai mà ngu ngốc cho đến nỗi phải thua trí một người đàn bà. Nhìn vào thì đau ruột mà nói ra thì anh ngại ngùng chẳng dám. Trăm sự chỉ vì anh mà một mình em bị lụy. Em như viên ngọc đang bị trôi trong cát bùn. Anh thấy tội cho em đã đánh mất cả một cuộc đời tươi trẻ. Thật ra anh chẳng quản ngại việc lên thác xuống gềnh. Anh cũng có thể hy sinh mạng sống cho tình yêu chúng ta. Ngặt vì anh chưa có con trai nối dõi tông đường để bầy tỏ lòng hiếu thảo với mẹ cha, nếu không thì anh sẽ nhất quyết đòi ly thân với nó. Anh rất thẹn vì đã phụ lời thề cùng em, để cho bây giờ đá nát vàng phai. Xin em biết cho là dù có hy sinh tấm thân này trong một trăm kiếp liên tục anh cũng không chuộc lại được một lời thề nguyền anh đã nói.
Kiều bảo:
– Thân phận em cũng như một chiếc thuyền nhỏ bé đang trôi giạt giữa biển ba đào, nổi chìm cũng là do may rủi cả. Em đã từng quằn quại trong một vùng lầy, đến bây giờ còn được sống thừa ở đây đã là một điều may mắn lắm. Em có dám trách cứ gì anh đâu. Chỉ xót xa là chúng ta đã bắt đầu so dây cho một cung đàn tình ái. Tuy chưa đích thực là một cuộc trăm năm nhưng em nghĩ một ngày cũng đã nên tình nên nghĩa. Vậy thì nếu anh còn có nghĩ đến em thì hãy tìm cho em một lối thoát để ra khỏi nơi này. Đó mới thật là ân sâu nghĩa nặng.
Thúc Sinh bảo:
– Cứ theo những điều anh thấy lâu nay thì lòng người đàn bà kia thật là nham hiểm, không thể nào lường được. Anh sợ một ngày nào đó khi giông tố phũ phàng nổi dậy thì bao nhiêu thiệt thòi em sẽ phải gánh chịu tất cả, mà anh sẽ cũng khổ đau không kém. Vậy thì em hãy kiếm cách mà xa chạy cao bay đi thôi. Tình duyên của chúng ta tới đây có lẽ là đến lúc phải nên chấm dứt. Bây giờ em ra đi, thì sau này kẻ ngược người xuôi, chẳng bao giờ chúng ta lại có cơ hội nối lại lời nguyền xưa đâu. Nhưng em ơi, dù cho sông có cạn, đá có mòn, một con tằm như anh thì đến chết kiếp nó vẫn còn vương tơ không thể nào ngưng nghỉ.
Hai người kể cho nhau nghe bao nhiêu nỗi niềm tâm sự. Hết người này nói, lại đến người kia nói, câu chuyện như không bao giờ chấm dứt. Thúc Sinh cứ nhìn Kiều mà tay chàng vẫn không muốn buông Kiều ra. Chợt con thị tỳ từ xa làm dấu hiệu là đang có người đi đến. Lúc ấy chàng mới chịu đứng dậy. Tuy nhiên bụng chàng còn ấm ức muốn nói thêm. Lúc ấy Hoạn Thư không biết từ đâu đã rẽ hoa bước vào. Vẫn tươi cười và bằng một giọng nói rất ngọt, tiểu thư hỏi Thúc:
– Anh đi đâu mà lại lạc tới đây vậy?
Thúc Sinh tìm lời nói dối:
– Anh đi xem hoa, vui bước tới đây hồi nào mà chẳng hay. Nhân tiện anh ghé vào xem sư cô Trạc Tuyền chép kinh.
Tiểu thư đến gần nâng bản chép kinh cûa Kiều lên xem rồi khen:
– Bút pháp tinh vi thật. So với chữ trong thiếp lan đình thì nét bút này đâu có thua gì. Rất tiếc cho đương sự có số lưu lạc giang hồ. Nếu không thì tài nghệ này cũng đã có người chịu trả ngàn vàng để rước lấy.
Hai người ngồi chơi uống cạn một chén trà hồng mai rồi mới cùng sánh vai nhau thong thả đi về thư viện. Kiều cảm thấy vừa buồn vừa sợ. Nàng hỏi nhỏ con thị tỳ. Cô này nói rằng Hoạn Thư đến đã từ lâu, và đã nhón gót đứng núp và nghe hết mọi lời thở than và tâm sự của cả hai người:
– Tiểu thư bảo con đứng tránh sang một bên, không cho con gây nên tiếng động. Tiểu thư đứng đấy nghe lén vào khoảng chừng một giờ. Nghe chán rồi tiểu thư mới bước lên lầu.
Nghe con thị tỳ nói, Kiều kinh hãi:
– Đàn bà như thế thì trên đời này họa ra chỉ có một người! Tài thật, gan thật. Càng nghĩ ta càng thấy rợn tóc gáy. Người đâu mà thâm hiểm đến thế, khiến cho cả chàng Thúc Sinh cũng phải bó tay. Nếu là kẻ khác thì trong một cuộc bắt ghen như thế này thế nào người ta cũng đã nổi máu ghen lên để chau mày, nghiến răng và làm dữ. Thế mà ở đây người ấy vẫn cứ cười cợt vui vẻ và nói năng dịu dàng như thường! Nếu đùng đùng nổi giận thì đó là một kẻ thường rồi. Đằng này người ta không nổi giận mà lại còn ngọt ngào cười nói: thế mới biết cái hiểm và cái sâu trong lòng người đàn bà này thật không thể nào đo lường được. Thôi thôi, ta phải biết lo cho cái thân phận của ta. Đây là chốn miệng hùm nọc rắn, ta không thể nào ở lâu được. Phải tìm cách chắp cánh mà cao bay. Ở đây sẽ có ngày bị hại. Thân phận của ta đã là thân phận của một cánh bèo thì ta đâu cần phải sợ hãi gì cái cảnh sông nước nữa. Đã lênh đênh thì đâu cũng lênh đênh. Ta còn ngại gì mà không đi. Chỉ hiềm một chút là ra đi nơi đất khách một mình, không có đồng nào trong tay thì làm sao mà tránh được cơn đói rét?
Chùa đâu trông thấy nẻo xa
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co, Kiều quyết định dắt theo một ít những đồ thờ tự làm bằng vàng và bằng bạc trong chùa để làm của hộ thân. Nàng đợi đúng vào lúc nửa đêm, khi trống canh ba vừa điểm thì leo tường trốn ra. Dưới ánh trăng tà, Kiều tìm đường đi về hướng Tây. Vượt qua nhiều đồi cây và những dặm đường cát, Kiều lần đi trong tiếng gà điểm nguyệt và để lại dấu chân trên những chiếc cầu đẫm sương. Đêm thì khuya, đường thì dài mà một mình thân gái, Kiều vừa sợ hãi về những bất trắc có thể xảy ra trong bước đường tỵ nạn, vừa cảm thương cho thân phận dãi dầu của mình. Từ phương Đông ánh mai vừa xuất hiện đủ để soi rõ được khu rừng dâu. Kiều vẫn còn bơ vơ chưa biết là mình sẽ đi tới đâu. Bỗng nàng thấy từ xa thấp thoáng hình bóng một ngôi chùa. Tới gần, Kiều đọc được ba chữ Chiêu Ẩn Am dưới mái tam quan rất rõ. Nàng gõ cửa. Một ni sư đi ra và mở cửa cho Kiều vào. Đây là ni sư Giác Duyên, vị sư trưởng của chùa. Thấy Kiều dưới y phục nâu sồng, ni sư vốn là một người rất lành, bất giác đem lòng thương hại. Ni sư hỏi thăm Kiều là ai và từ đâu tới. Trong buổi mới lạ lùng, Kiều phải tìm lời nói quanh:
– Bạch ni sư, con quê ở Bắc Kinh, đi xuất gia tu hành đã lâu. Con đi với thầy con. Thầy con có chút việc phải ghé đâu đó, dạy con đến đây trước rồi thầy sẽ đến sau. Thầy con có dặn đem các pháp bảo này theo để cúng dường ni sư.
Rồi Kiều lấy ra chuông vàng khánh bạc và đem trình lên. Nhìn qua, ni sư nói:
– Nếu thầy của cô là ni sư Hằng Thủy thì đó là bạn rất thân của tôi. Cô nên ở lại đây ít ngày để đợi thầy của cô đến, rồi hãy cùng đi tiếp cuộc du hành. Đừng nên đi sớm một mình mà nguy hiểm.
Có chốn am mây để gởi thân, Kiều cảm thấy rất may mắn. Nàng được sống những ngày tháng thong dong trong nếp sống dưa muối đạm bạc của nhà chùa. Trước đây Kiều đã có dịp học thuộc được một ít kinh kệ. Việc hương đèn thì Kiều cũng đã từng làm quen tay. Thành ra trong nếp sống xuất gia này không có gì là khó khăn với nàng cả. Mỗi sớm mỗi khuya Kiều tham dự vào những buổi tụng niệm và sử dụng chuông mõ. Tối đến thì nàng đốt đèn. Sáng dậy thì nàng thỉnh chuông đại hồng. Thấy Kiều là một sư cô thông tuệ, ni sư Giác Duyên càng lúc càng nể và càng thương. Kiều cũng cảm thấy chỗ đứng của mình ở đây càng ngày càng vững chãi. Tình đạo bạn giữa chị em nảy nở.
Tóm lược
Nhưng Kiều chỉ ở được am Chiêu Ẩn tới mùa thu thì bị tiết lộ, vì có người nhận ra được chuông vàng khánh ngọc của Quan Âm Các. Ni sư Giác Duyên khuyên Kiều sang ở ẩn tạm bên nhà một người bổn đạo tên là Bạc Bà. Ai dè Bạc Bà cũng là một thứ Tú Bà. Bà ta dọa dẫm nếu Kiều không lấy cháu trai của bà là Bạc Hạnh và đi lập nghiệp nơi xa thì sớm muộn gì cũng bị Hoạn Thư sai người tới bắt. Bạc Hạnh cũng là một loại Mã Giám Sinh. Lễ cưới vừa xong thì Bạc chở Kiều đi Châu Thai và bán Kiều cho một trung tâm lầu xanh ở đây. Kiều lại rơi vào vũng bùn một lần nữa. Tiếc thay, nước đã đánh phèn, mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần.
Một thời gian sau đó, may mắn Kiều được gặp Từ Minh Sơn, một chàng hiệp sĩ, một người làm cách mạng. Gặp nhau lần đầu hai người đã ưng ý nhau. Từ Hải bỏ tiền chuộc Kiều ra ở riêng. Nửa năm sau, Từ Hải lên đường lập nghiệp. Kiều xin đi theo, Từ không cho, nói rằng một năm nữa khi làm nên sự nghiệp, Từ sẽ cho quân đội tướng tá và cung nga về đón Kiều. Từ Hải dấy binh chiếm một phần lãnh thổ của nước Minh, hùng cứ một vùng đất ven biển. Thành công rồi, Từ cho quân lính đi rước Kiều. Kiều lên ngôi phu nhân ngồi bên Từ Hải. Nghe Kiều kể những chuyện oan ức ở Lâm Tri và Vô Tích, Từ nổi giận cho hai đạo binh đi bắt hết cả những kẻ đã làm khổ Kiều, và cũng để mời luôn những người ơn của Kiều như bà quản gia, ni sư Giác Duyên và chàng Thúc Sinh về để Kiều được tạ ơn. Cuộc hành quân này thành công. Kiều đã báo ơn và trả thù bằng những phương tiện quyền lực của Từ Hải. Kiều muốn mời ni sư Giác Duyên ở lại chơi lâu hơn, nhưng ni sư không muốn. Và khi ni sư nói lời từ giã, ni sư bảo là theo lời tiên đoán của đạo cô Tam Hợp, năm năm nữa thì hai chị em sẽ lại được gặp nhau.
Từ Hải tiếp tục hành quân chiếm cứ thêm năm huyện thành nữa ở Phúc Kiến và Triết Giang, uy thế lừng lẫy. Quan tổng đốc Hồ Tôn Hiến được lệnh vua ra đối phó. Hồ đề nghị giải pháp phong quyền tước cho Từ Hải nếu Từ Hải chịu quy phục triều đình. Từ Hải không muốn bó thân về với triều đình, nhưng sau khi nghe Kiều phân giải, đã bằng lòng quy phục. Kiều rất mong được có dịp về đoàn tụ với gia đình cho nên đã khuyên Từ Hải như thế. Nhưng Hồ Tôn Hiến đã sử dụng phương pháp quân sự thay vì chính trị. Từ bị lừa, tử trận trong cuộc đánh úp. Kiều bị Hồ ép dâng rượu và đánh đàn trong đêm mừng chiến thắng của quan quân nhà nước. Đêm ấy Hồ Tôn Hiến vì say rượu cho nên đã say luôn nhan sắc của Kiều. Sáng hôm sau thức dậy, sợ mất uy tín triều đình, Hồ quyết định gả gấp Kiều cho một viên tù trưởng địa phương. Vị thổ quan rước Kiều xuống thuyền.
Đầu hôm ngồi trong thuyền, Kiều nghe tiếng thủy triều lên ầm ầm. Hỏi ra Kiều biết thuyền đang đi trên sông Tiền Đường. Nhớ lời của Đạm Tiên nói trong giấc mộng, Kiều tin chắc đây là lúc mình phải chết. Kiều để lại một bài thơ tuyệt mệnh, rồi vén màn thuyền nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử.
Nạn xưa trút sạch
Sau khi từ giã Kiều, ni sư Giác Duyên mang theo bên mình một bầu nước và một túi kinh, bắt đầu du hành rộng rãi. Trên bước đường vân du, ni sư lại có dịp gặp đạo cô Tam Hợp. Trong những giờ phút thảnh thơi, hai người đàm đạo, ni sư tâm sự và kể hết cho đạo cô nghe về những biến cố đã xảy ra trong cuộc đời của Kiều. Cuối cùng ni sư hỏi đạo cô:
– Đạo huynh, tại sao một con người vừa có hiếu vừa có nghĩa đầy đủ mọi đường như thế mà trong kiếp sống lại chỉ gặp toàn những chuyện đau thương, đứt ruột như thế?
Đạo cô Tam Hợp trả lời:
– Tai họa và hạnh phúc nói là do trời quyết định nhưng thật ra cội nguồn của chúng cũng do từ ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta: tu hành là cội nguồn của hạnh phúc, tình ái là sợi giây oan nghiệt buộc lấy thân mình. Kiều là một người có nhan sắc và có thông minh, nhưng lại là một cô gái thiếu duyên phúc. Thêm vào đó, Kiều lại đa tình đa cảm, và trở thành nạn nhân của chính cái đa tình đa cảm ấy, luôn luôn tự lấy sợi giây tình mà buộc thân phận mình vào những hoàn cảnh hệ lụy. Cũng vì vậy mà ngay những lúc đáng được thong dong, cô ta cũng ở không yên, ngồi không vững. Mình bị cái đa tình đa cảm của chính mình kéo mình đi về những chốn đoạn trường không ngớt. Thật là ma đưa lối, quỷ dẫn đường. Hết tai nạn này thì tới tai nạn khác. Hết hai lần làm kỹ nữ đến hai lần làm nô tỳ. Bây giờ thì trong chốn giáo dựng gươm trần cô ta đang kề lưng hùm sói, và sau này cũng sẽ lại rơi xuống làm thân nô lệ. Đã hết đâu. Trong tương lai sẽ phải gieo mình trên sóng nước bập bềnh làm mồi cho loài rồng cá. Tình và oan đi đôi với nhau, oan kia sẽ đi theo mãi với tình, và trong hoàn cảnh khổ đau đó chỉ một mình mình biết, một mình mình hay, không ai thấu được nỗi khổ đau của mình, không ai chia sẻ được với mình nỗi cô đơn cùng cực ấy. Cái oan tình ấy sẽ làm cho Kiều sống thì đọa, chết thì đày, và cái khổ đau đứt ruột này sẽ đi theo Kiều cho hết kiếp.
Nghe đạo cô nói thế, ni sư Giác Duyên cảm thấy toàn thân bủn rủn rụng rời. Ni sư than:
– Nếu quả thật như thế thì cả một kiếp sống của Kiều đâu còn gì nữa?
Đạo cô nói:
– Nhưng không sao đâu. Nghiệp duyên của Kiều còn được cân lại nhắc đi nhiều lần. Xét cho kỹ thì trong trường hợp của Kiều tuy đã từng vướng vào tình ái nhưng lại không để cho mình phạm vào tội tà dâm. Lại còn biết lấy tình thâm để đền trả nghĩa thâm: sự kiện Kiều bán mình chuộc cha đã làm đất trời cảm động. Hơn nữa, hành động hại một người để cứu được muôn người, biết cái gì là quan trọng và cái gì là không quan trọng, biết cái gì là phải, biết cái gì là sai, đó là những công đức tích cực của Kiều, ít ai sánh kịp. Nhờ đó mà nghiệp trước sẽ được dần dần rửa sạch. Rồi sẽ đến lúc trời cũng chiều người, nghiệp xưa một khi đã nhẹ thì duyên sau sẽ được đền bồi. Nếu ni sư Giác Duyên có còn tha thiết với tình bạn thì hãy chuẩn bị một chiếc bè lau đợi ở sông Tiền Đường để cứu Kiều. Như vậy thì lời hứa năm xưa trước sau sẽ được vẹn toàn, và khi ta gây nhân tốt thì phúc trời kia cũng sẽ đến với ta.
Nghe đạo cô nói, Giác Duyên mừng rỡ trong lòng. Ni sư tìm đến bên sông Tiền Đường đánh tranh dựng một thảo am để cư trú. Cảnh trí ở đây thật đẹp. Một gian thảo am trên thì có mây vàng, dưới thì có nước biếc. Ni sư thuê hai người ngư dân đóng thuyền trực ở bến, kết lưới giăng sông suốt cả một năm. Ni sư không quản gì công phu chờ đợi, và may thay duyên nghiệp đã sắp đặt để ni sư có dịp gặp lại Kiều trong khung cảnh ấy một cách mầu nhiệm. Khi Kiều gieo mình xuống sông thì nước cuốn nàng trôi xuôi ngay vào lưới của hai người ngư phủ. Khi thấy lưới nặng hai người kéo lên thì thấy có Kiều trong lưới. Thế mới biết những lời tiên đoán của đạo cô thật là ứng nghiệm thần diệu. Kiều được kéo lên mui thuyền, áo lụa của nàng lướt mướt. Tuy Kiều có bị uống nước, nhưng tánh mạng của nàng chưa đến nỗi nào. Ni sư nhận thật ra được mặt Kiều, trong khi Kiều còn nằm thiêm thiếp bất tỉnh. Phách quế hồn mai còn đang mơ màng, Kiều chợt thấy Đạm Tiên ngày xưa xuất hiện. Đạm Tiên nói:
– Em chờ chị ở đây từ mười mấy năm nay, công phu biết mấy. Thật là mầu nhiệm. Phận của chị tuy mỏng, nhưng đức của chị lại dày. Quá khứ đầy khổ đau như thế, nhưng tương lai dễ có mấy người có được nhiều may mắn như chị. Tấm lòng của chị đã làm cảm động đến trời. Bán mình chuộc cha, chị là người có hiếu. Chấm dứt binh đao để cứu người khỏi chết, chị là người có nhân. Vì chị một lòng vì nước vì dân cho nên cán cân nghiệp báo đã nghiêng về phía tích cực. Bây giờ tên của chị đã được rút ra khỏi sổ đoạn trường thì em phải gặp chị để trả lại cho chị mười bài thơ đoạn trường mà chị đã đóng góp cho hội. Chị đừng lo nhé: từ đây về sau chị sẽ hưởng thụ rất nhiều hạnh phúc, và mối lương duyên của chị sẽ được tròn trặn như xưa.
Kiều còn ngớ ngẩn chưa biết trả lời ra sao thì bên tai bỗng nghe tiếng gọi:
Buổi hôm buổi sớm đều có tiếng thủy triều lên xuống, và từ phía trước am cũng như phía sau am, hai người được ngắm những áng mây có đủ sắc màu. Cảnh trí ở đây mênh mông bát ngát cả bốn bề. Tai nạn xưa bây giờ đã hoàn toàn trút sạch, và mối duyên xưa nào ai có biết sẽ lại xảy ra ngay ở chốn này?
Đau nỗi biệt ly
Kiều đã đi qua bao nhiêu tai nạn trong cuộc đời nàng. Nhưng những gì xảy ra cho Kim Trọng trong thời gian ấy cũng thật đáng thương. Từ giã Kiều để về Liêu Dương hộ tang chú, Kim Trọng phải ở lại đấy tới nửa năm trường. Khi về lại Bắc Kinh, tìm tới vườn Thúy thì chàng thấy phong cảnh đã hoàn toàn đổi khác. Đầy vườn nhà Kiều cỏ hoang đã mọc, các cửa sổ hình mặt trăng đã trở nên thê lương quạnh quẽ, còn vách tường nhà đã bị dầm mưa rã rời từng mảng. Nhìn trước nhìn sau Kim chẳng thấy một bóng người. Chỉ có những cây anh đào trước sân đang tới mùa hoa nở, hoa vẫn cười cợt với gió mùa xuân giống y như năm ngoái. Chim én đang xập xòe bay lượn trên chiếc lầu trống trải. Cỏ dại lan đầy mặt đất, rêu rong đã phủ hết các dấu chân người. Cuối bức tường gai góc mọc đầy. Và đây là những ngõ ngách mà Kiều đã chui qua thăm Kim ngày nọ.
Cảnh vật xung quanh lạnh ngắt như tờ. Nỗi niềm tâm sự tràn đầy, Kim chẳng biết chia sẻ cùng ai. Ngay lúc ấy có một người láng giềng đi ngang. Kim nhân cơ hội tới gần và hỏi thăm về gia đình Kiều. Chàng được biết là ông Vương đã bị bắt oan, và Kiều đã phải bán mình để chuộc cha ra khỏi vùng tù tội. Gia đình đã dời đi nơi khác. Hỏi thăm Vương Quan và Thúy Vân, Kim được biết rằng cả gia đình đều sa sút. Gặp bước khó khăn, mọi người phải đi may thuê viết mướn để tìm cách sinh nhai. Những điều Kim được nghe như sét đánh lưng trời làm cho chàng choáng váng rụng rời. Chàng vội hỏi xem gia đình ông Vương đã dời đi nơi đâu, rồi lập tức tìm tới tận nơi ấy. Chỗ gia đình ông Vương đang ở bây giờ là một túp lều tranh, vách tô bằng đất, đã có vẻ tả tơi, rèm nhà thấp chủn đan bằng lau sậy. Phên nhà thì được gài bằng tre thưa. Khoảng sân trước nhà đầy cỏ và ướt dầm nước mưa, trông thật tiều tụy và ngao ngán. Đứng ngoài tường, Kim Trọng đánh liều lên tiếng gọi. Nghe tiếng chàng, Vương Quan vội vàng chạy ra. Thấy Kim, Vương nắm tay chàng kéo ngay vào nhà. Từ mái sau, hai vợ chồng ông Vương cũng lập tức đi ra. Ông bà thấy Kim liền sa nước mắt. Họ khóc than kể lể hết mọi nỗi niềm khổ đau mà họ đã chịu đựng.
– Cháu ơi, cháu có biết những gì rủi ro đã xảy đến cho Kiều hay chưa? Em nó không có phước, phận nó mỏng như một tờ giấy. Nó lỡ thề nguyền tóc tơ với cháu, nhưng gặp cơn tai biến của gia đình, nó đã phải bán mình cứu cha, làm lỡ làng cả duyên phận. Ngày ra đi, nó đau khổ vô cùng. Nó cứ dùng dằng mãi và dặn bác tới ba bốn bận, là xin bố mẹ mượn em Thúy Vân để thay thế nó mà đền đáp lại ân tình cho người nó yêu. Nó nói: ‘Bố mẹ ơi, chỉ có cách đó thì con mới đền trả được chút ít cái tình nghĩa lớn lao của chàng. Con sẽ muôn đời không quên chàng. Kiếp này con đã phụ chàng thì kiếp sau con nguyền sẽ đền đáp lại.’ Nó cứ dặn đi dặn lại mấy điều đó một cách rất kỹ lưỡng, cốt để cho hai bác phải nhớ lấy rồi mới cất mình ra đi. Kiều ơi, đứa con yêu của bố mẹ ơi, sao mà số phận con mỏng manh đến như thế? Chàng Kim đã về tới đó, nhưng còn con thì bây giờ con ở đâu?’ Hai ông bà càng nói thì niềm đau xót càng tăng. Nghe đến đâu thì ruột Kim Trọng càng thắt lại tới đó. Chàng lăn xuống sân nhà, khóc như mưa như gió. Nước mắt chàng đầm đìa, hồn phách chàng thẫn thờ. Có những lúc niềm đau dâng lên cao quá, Kim ngất đi. Ngất đi để rồi tỉnh dậy mà khóc than tiếp. Khóc than nhiều thì cơn đau lại dâng lên và Kim lại ngất đi nữa. Thấy Kim đau khổ quá nhiều vì nỗi biệt ly, ông bà Vương cố tìm cách khuyên giải chàng. Ông nói:
– Bây giờ em nó đã bị gả bán cho người ta, cũng như ván đã đóng thuyền. Nó đã chấp nhận số phận bạc bẽo của mình, không hy vọng gì đáp lại tấm tình chung của cháu nữa. Hai bác biết là cháu rất thương nó, tiếc nó, nhưng không lẽ cháu lại đi hủy hoại cái thân ngàn vàng của cháu hay sao? Cháu phải biết giữ gìn cái thân của cháu chứ?
Càng tìm mọi phương cách dỗ dành và khuyên giải, hai ông bà lại càng làm cho nỗi đau phiền của Kim lớn lên. Những kỷ vật ngày xưa như trầm hương và xuyến vàng được đem ra. Thấy những kỷ vật này Kim càng thương, gan chàng càng tức tối, ruột chàng càng xót xa. Kim nói:
– Chỉ vì con lỡ bước chân ra cho nên mới xảy ra cơ sự bèo dạt hoa trôi như thế. Nếu con ở nhà thì đã đâu đến nỗi này? Chúng con đã thề thốt nặng lời với nhau, những điều vàng đá đó đâu phải là những điều nói suông được. Dù cho chúng con chưa chung chăn chung gối với nhau, nhưng trên nguyên tắc chúng con đã là vợ là chồng của nhau rồi, làm sao mà có thể chấm dứt liên hệ này dễ dàng như thế cho được. Nếu cần bao nhiêu công của, tốn bao nhiêu tháng ngày để tìm kiếm, con cũng quyết tìm gặp lại cho được Kiều.
Nỗi nhớ niềm thương nói ra chưa hết, Kim chào tạm biệt gia đình ông Vương và bước ra. Chàng về chuẩn bị sửa soạn căn nhà chàng thuê bên vườn Thúy để rước cả gia đình ông Vương cùng tới ở. Kim Trọng quyết thay thế Kiều để chăm sóc cha mẹ Kiều, sớm hôm hầu hạ hai người với tư cách của một người con có hiếu, làm công việc mà Kiều đã làm ngày xưa. Trong thời gian ấy chàng lấy nước mắt để mài mực viết thơ rồi gởi người đi hỏi thăm và tìm kiếm tung tích của Kiều. Biết bao nhiêu công mượn của thuê, và đã biết bao người đã được gởi về quận Lâm Thanh để điều tra tìm kiếm. Nhưng người thì đang ở Lâm Tri mà tìm thì lại đi tìm ở Lâm Thanh, mênh mông trời biển tìm sao cho ra được? Vì vậy cho nên Kim càng nóng ruột, càng khẩn thiết, gan chàng như nung, ruột chàng như bào, thân thể chàng càng ngày càng ốm o, hao mòn như một con ve. Lúc thì chàng tỉnh, lúc thì chàng mê, máu muốn trào theo nước mắt, hồn muốn lìa xác trong những giấc chiêm bao.
Hai ông bà Vương thấy thế xiết bao lo sợ. Lỡ chàng có mệnh hệ nào thì chẳng biết làm sao. Họ bèn quyết định chọn ngày lành tháng tốt chuẩn bị làm lễ cưới, gả Thúy Vân cho chàng. Thế là đám cưới được cử hành. Chàng là kẻ sĩ tài hoa, nàng là giai nhân yểu điệu, hai bên đều xuân xanh vừa lứa.
Tuy Kim Trọng tìm được niềm vui trong cuộc tác hợp này nhưng mối sầu đau của chàng vẫn chưa gỡ ra được. Khi ăn ở, lúc ra vào, tuy cảm thấy được niềm vui của cuộc tác hợp mới nhưng niềm nhớ thương của mối tình cũ vẫn canh cánh bên lòng. Nhớ thương cho đến bao giờ mới khuây? Có khi trong thư phòng vắng vẻ, Vân và chàng đem hương xưa ra đốt và đàn xưa ra gảy. Tiếng tơ rủ rỉ chuyển mình trong khi trầm bay nhạt khói và gió nhè nhẹ đưa chiếc màn lay động. Cả Vân và Kim đều có cảm tưởng là bên chái bên thềm có tiếng Kiều về đồng vọng, và có cả bóng xiêm y của Kiều thấp thoáng mơ màng. Bởi vì lòng của hai người đã ghi nhớ lời trăn trối của Kiều nên khi tưởng nhớ tới Kiều thì họ thấy như có Kiều hiện về trong giây phút ấy.
Hoa chào ngõ hạnh
Những phiền muộn vì nhớ thương kéo dài với bao nhiêu năm tháng. Năm ấy có khoa thi đặc biệt. Cả Kim Trọng lẫn Vương Quan đều đậu tiến sĩ cùng một ngày. Thế là cửa trời rộng mở đường mây, cả hai đều được vinh quy bái tổ. Hoa chào hai chàng ở ngõ hạnh nơi vườn ngự uyển, và hương thơm danh dự bay về tận chốn quê nhà. Nhớ đến gia đình ông Chung đã từng nâng đỡ cho mình trong giai đoạn khó khăn ngày trước, chàng Vương bèn sang nhà ông để tạ ơn. Nhân dịp này, chàng được ông bà Chung gả con gái cho. Còn Kim Trọng thì từ khi thi đậu làm quan, càng nghĩ chàng càng thấy thương Kiều. Ngày xưa ai đã dặn ngọc thề vàng với mình? Và bây giờ mình đang hưởng kim mã ngọc đường với ai? Cố nhân đang lạc loài phương nào nơi rễ bèo chân sóng? Giờ đây được vinh hiển, chàng nhớ tới người đang lạc bước lưu ly. Kim được lệnh vua ban ra nhậm chức ở Lâm Tri. Đường xa ngàn dặm, chàng đem theo cả gia đình. Trong khi làm quan chàng được sống những ngày tháng nhàn nhã, sớm hôm chỉ có tiếng đàn và tiếng hạc. Một đêm mùa xuân, nằm nơi chốn trướng rũ hoa đào, Thúy Vân bỗng nằm mơ thấy Kiều. Sáng ra nàng kể lại với Kim. Nghe Vân nói chàng sinh nghi: Có thể ngày xưa Kiều đã bị bán về Lâm Tri chứ không phải Lâm Thanh. Có lẽ người ta đã nghe lầm chữ Tri ra chữ Thanh. Đồng thanh thì tương ứng và đồng khí thì tương cầu, Vân nằm mơ thấy Kiều có thể là vì như thế. Ta hãy hỏi dò thử xem. Sáng hôm ấy thăng đường, Kim mới bắt đầu hỏi tra. Có một vị thừa lại tuổi đã già họ là Đô thưa lên với chàng:
Theo lời ông thư ký họ Đô, Kim Trọng viết thiếp mời Thúc Sinh:
– Người chồng ấy của Kiều là ai, tên họ là gì? Xin nói rõ cho biết.
Thúc Sinh trả lời:
– Có dịp gặp Kiều trong quân ngũ vào thời loạn lạc, tôi đã hỏi và đã biết rất nhiều chi tiết. Đại vương họ Từ tên Hải, đánh giặc trăm trận trăm thắng, một mình có thể đọ sức với muôn người. Ông gặp Kiều ở Châu Thai. Cố nhiên người quốc sắc kẻ thiên tài khi gặp nhau thì sự việc đã xảy ra như thế. Quân lính của đại vương Từ Hải đã vẫy vùng trong bao nhiêu năm làm cho kinh thiên động địa cả một vùng. Đại quân sau đó về đóng tại miền Đông. Từ đó về sau tôi chẳng còn tin tức gì nữa.
Ngọn triều non bạc
Được nghe về Kiều với tất cả những chi tiết có ngành có ngọn rõ ràng, Kim cảm thấy lao đao và thẫn thờ trong dạ. Thương thay cho thân phận Thúy Kiều, thân phận của một chiếc lá lìa cành bơ vơ không nơi nương tựa. Không biết những năm tháng gió bụi ấy bao giờ mới rũ sạch cho xong? Tưởng chừng như cánh hoa rụng đã theo dòng nước chảy xuôi, thật xót xa cho thân Kiều chìm nổi, và đau đớn biết mấy cái cuộc phân ly này. Lời nguyền xưa đã lỡ, tuy mảnh gương còn đó và phím đàn còn đây. Nâng chiếc đàn lên thì bốn giây đàn cũng chỉ phát ra được những âm thanh ngơ ngẩn. Trong kiếp này ta còn có chút hy vọng nào về hương lửa nữa chăng? Nàng còn phiêu lưu ngoài kia như một cánh bèo trôi, như một bông cỏ nhẹ, không biết ở chốn nào, thì dù cho có bao nhiêu phước lộc vua ban ta cũng không thể ngồi yên đây mà tận hưởng.
Kim Trọng những muốn treo ấn từ quan, để xông pha lặn lội đi tìm Kiều, nghĩ rằng mấy sông chàng cũng có thể lội và mấy đèo chàng cũng sẽ vượt qua. Chàng nghĩ nếu cần dấn thân đi qua những nơi binh lửa, dù có phải vào sinh ra tử nữa, chàng cũng sẽ liều mình, nếu không thì không có cơ hội gặp lại được người yêu cũ. Nhưng nghĩ lại cho kỹ thì trời đất thăm thẳm, sông biển bao la, dấu tích Kiều như bóng chim tăm cá, biết hướng nào mà đi tìm?
Trong khi nấn ná chờ đợi để mong nhận thêm được một vài tin tức về Kiều, bao nhiêu năm tháng cùng mưa nắng đã đi qua. Bỗng nhiên có chiếu của vua ban tới, dạy rằng Kim Trọng phải đi trấn nhiệm ở Nam Bình và Vương Quan cũng phải đi trấn nhiệm ở thành Thư Dương. Cả hai gia đình đều vội vàng sắm sửa xe ngựa cùng một đường đi nhậm chức. Nghe tin giặc giã miền ấy đã tan, sóng Phúc Kiến đã êm và lửa Triết Giang đã tàn, Kim Trọng mới rủ Vương Quan trên đường đi nhậm chức cùng ghé lại tìm Kiều. Đến Hàng Châu, hai người hỏi được rất nhiều tin tức về nàng. Người ta đã kể về chuyện nàng rất rành mạch với thật nhiều tin tức: ‘Ngày hôm hai bên giao chiến, vì thất trận, Từ Hải đã bỏ mình giữa chốn chiến trường. Công lớn của Kiều trong cuộc chiến thắng ấy lại không được đền trả, trái lại nàng đã bị ép lấy một viên tù trưởng địa phương. Vì vậy mà Kiều đã nhảy xuống sông tự tử. Sông Tiền Đường ấy là mộ của nàng.’
Thương xót biết bao nhiêu! Tại sao có chia ly mà không có hội họp? Cả nhà được vinh hiển, duy chỉ có một mình nàng là gánh chịu oan khổ. Mọi người tổ chức làm lễ chiêu hồn, thiết lập bài vị của Kiều. Một đàn chay giải oan được dựng lên ngay bên bờ sông Tiền Đường. Nhìn ngọn sóng triều vĩ đại dâng lên như một hòn núi trắng xóa, đợt này nối theo đợt khác, ai cũng tưởng tượng được giờ phút cánh chim hồng đang gieo mình xuống nước. Trong tình máu mủ, ai lại không thấy lòng mình đang chìm đắm trong biển cả thảm sầu? Hồn con chim Tinh Vệ bây giờ biết tìm ở đâu?
* * *
Nhưng cơ duyên thật là lạ lùng. Trong khi đàn chay sắp sửa khai mạc thì ni sư Giác Duyên tự nhiên đi ngang, tìm tới. Trông lên linh vị, thấy tên của Thúy Kiều, ni sư kinh hãi, vội hỏi:
– Quý vị là ai? Tại sao người ta đang còn sống mà lại đi làm chay để cầu siêu cho người ta như vậy?
Nghe ni sư nói ai cũng ngơ ngác, rụng rời. Tất cả mọi người đều xúm quanh Giác Duyên để tra hỏi. Đây là thân phụ của Kiều, đây là thân mẫu của Thúy Kiều, đây là em trai của Kiều, đây là em gái của Kiều, đây là chồng chưa cưới của Kiều, và đây là em dâu của Kiều. Chúng tôi được nghe tin rằng Kiều đã chết. Ai cũng nói như thế! Bây giờ ni sư lại dạy là Kiều còn sống thì chúng tôi làm sao mà tin được? Lạ quá! Đâu có thể như vậy được? Giác Duyên bảo:
– Tôi có nhiều mối nhân duyên quan hệ với Kiều. Trước đã từng gặp Kiều ở Lâm Tri, sau lại còn gặp Kiều ở sông Tiền Đường. Khi Kiều gieo mình tự tử tôi đã quăng lưới cứu được Kiều, rồi đón Kiều về chùa. Chùa lá cũng gần đây thôi, không xa xôi gì mấy. Chúng tôi đã cùng sống và tu học với nhau tại đó từ ấy tới nay. Thỉnh thoảng Kiều cũng có ý nhớ nhà. Các vị muốn gặp Kiều thì tôi sẽ đưa quý vị về chùa ngay tức khắc.
Trời còn để có hôm nay
Nghe ni sư Giác Duyên nói, ai cũng cảm thấy nở mặt nở mày. Còn có nỗi mừng vui nào lớn hơn nỗi mừng vui này nữa hay không? Từ khi chiếc lá lìa rừng, công cuộc thăm tìm đã lắm mà mặt nước chân mây vẫn không có dấu tích gì. Ai cũng nghĩ rằng Kiều như một bông hoa đã rụng, một áng mây đã bay, họa chăng kiếp sau mới gặp được, chứ trong kiếp này thì không còn hy vọng. Tưởng rằng âm dương đã chia thành hai ngả, vậy mà bây giờ lại có hy vọng tìm ra được người chín suối ngay trên cõi trần này! Cả nhà xúm nhau lại lạy tạ ni sư Giác Duyên, và tất cả đều đi bộ theo ni sư ngay lúc ấy. Mọi người bẻ lau vạch cỏ tìm đường đi tắt về chùa, nhưng trong lòng vẫn còn hồ nghi chưa tin ngay được rằng đây là sự thật. Đi quanh co theo giải bờ sông, vượt khỏi khu rừng lau, họ tới được sân Phật đường. Đứng ở cổng chùa, ni sư Giác Duyên cất tiếng gọi. Từ trong liêu xá, sư cô Trạc Tuyền xuất hiện, bước những bước chân hoa sen đi ra.
Nhìn lên, nàng thấy cả nhà đều có mặt. Ông Vương còn khỏe, bà Vương còn tươi. Cả hai em đều trưởng thành thông thấy. Và đó là chàng Kim Trọng ngày xưa. Kiều không tin rằng cảnh này có thật. Đúng là mình đang mở mắt, vậy mà mình có cảm tưởng đang ở trong một giấc mơ. Mừng mừng tủi tủi, nàng để rơi hai dòng nước mắt ướt cả chiếc áo tràng nâu. Kiều gieo mình ôm lấy chân mẹ, vừa khóc vừa kể lại chuyện mình:
– Mẹ ơi, từ khi con bị lưu lạc xứ người, bèo trôi sóng vỗ, mới đó mà đã mười lăm năm. Những tưởng con đã phải chết trong cảnh sông nước cát lầm, ai dè con còn đủ phúc để được gặp lại gia đình ngay trong kiếp hiện tại.
Hai ông bà Vương cầm tay Kiều, nhìn vào mặt Kiều, thì thấy dung nhan của Kiều cũng chẳng khác gì mấy ngày nàng bước ra đi. Tuy đã trải qua mười lăm năm dãi dầu hoa nguyệt, nhưng con nó vẫn còn tươi đẹp, mười phần xuân sắc chỉ có gầy bớt đi ba bốn phần. Nỗi vui mừng lớn quá không có gì cân đo được. Lời tan hợp, chuyện xa gần, thiếu gì đề tài để nói. Vương Quan và Thúy Vân cũng xúm lại, người trước kẻ sau hỏi han tíu tít. Nhìn cảnh đoàn tụ của Kiều với gia đình, chàng Kim Trọng cũng cảm thấy bao nhiêu sầu muộn tan biến và trong lòng rộn rã một niềm vui. Tất cả mọi người xúm lại trước Phật đài để lạy Bụt và ni sư trụ trì. Chính nhờ ân đức từ bi mà Kiều đã chết còn được tái sinh trở lại. Vương ông ra lệnh chuẩn bị xe cộ để rước Kiều cùng về quan nha.
Kiều thưa:
– Thân phận nhỏ bé của con là thân phận của một cánh hoa rơi, con đã nếm đủ mùi đắng cay qua nửa đời người. Con đã tưởng sẽ phải suốt đời sống nơi mặt nước chân mây, đâu có dám tưởng là có được ngày hôm nay. Ngày hôm nay được gặp mặt trở lại, giống như đã được sinh ra lại trong một kiếp sống mới, nguyện ước tha thiết bấy lâu nay của con đã được hoàn toàn thỏa mãn. Con đã đi xuất gia, biết vui sống cuộc sống giải thoát, thì tuổi này đem gởi với cảnh thiên nhiên cũng đã vừa rồi. Nếp sống nơi cửa thiền đơn giản với rau đậu muối dưa và chiếc áo nâu sồng con đã quen thuộc, lòng con bây giờ đã nguội lạnh sự đời, con còn chen vào chốn bụi hồng làm gì nữa. Tu mà nửa chừng bỏ dở thì có hay ho gì đâu? Đã tu thì phải tu cho trọn. Những gì trong quá khứ cần để cho trôi qua thì cứ để cho chúng trôi qua. Con xin cha và mẹ cho phép con ở lại đây. Ân tái sanh của con đối với sư chị con rất nặng. Con làm sao dứt được ân nghĩa ấy mà bỏ ra đi?
Ông Vương nói:
– Con ơi, mỗi thời gian mình có một bổn phận khác nhau. Tu hành là việc hay, nhưng mình phải biết thích ứng với hoàn cảnh chứ. Đã đành tu theo Bụt theo tiên là điều quý, nhưng còn tình kia hiếu nọ, bổn phận của con ai sẽ làm thế cho con đây? Chúng ta luôn luôn ghi nhớ ơn đức cứu mạng của Bụt và của ni sư, sau này ta sẽ làm chùa và sẽ rước ni sư về cùng tu học.
Hoa xưa ong cũ
Cuối cùng Kiều phải chiều lòng cha mẹ. Giã từ ni sư, giã từ thảo am, mọi người cùng bước ra. Đoàn người về tới quan nha thì một bữa tiệc được mở ra để ăn mừng sự đoàn tụ. Khi men rượu cúc đã bắt đầu thấm, Thúy Vân liền đứng lên để phát biểu ý kiến. Nàng nói:
– Vì cơ trời tác hợp cho nên anh và chị mới có dịp gặp gỡ và thề nguyện với nhau mười lăm năm về trước. Nhưng vì đất bằng đã nổi phong ba, cho nên gia đình đã phải đem duyên người chị để buộc vào cho người em. Nhìn cho kỹ thì đây cũng là mối duyên kim cải, đây cũng là cảnh máu chảy ruột mềm. Trong mười lăm năm ấy, đã có biết bao thao thức và ước ao! Bây giờ tấm gương vỡ đã lành lặn trở lại, sau bao nhiêu năm tháng lừa lọc, ông trời lại trả cho chị chỗ đứng của chị ngày xưa. Người còn thì duyên phận cũng vẫn còn, thật là điều may mắn. Vầng trăng thề còn đó thì lời ước nguyện xưa vẫn còn. Trái mai còn đó, mười phần vẫn còn lại bảy phần, anh và chị nên chuẩn bị làm lễ thành hôn ngay đi cho kịp thời đúng lúc.
Vân vừa nói xong thì Kiều đã gạt đi:
– Thôi đi em ơi, chuyện cũ rích ngày xưa bây giờ ta không nên kể lại nữa. Tuy ngày xưa có lời ước nguyện thật đó, nhưng xét lại chị thấy chị đã dãi gió dầm mưa quá nhiều. Càng nhắc đến chuyện này chị càng thấy hổ thẹn, thôi thì cứ cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi cho xong chuyện.
Kim Trọng lên tiếng:
– Em nói lạ quá. Dù em có nghĩ như thế đi nữa, nhưng lời thề nguyền năm cũ thì sao? Một lời thâm giao đã trót nói lên, dưới thì có đất làm bằng trên thì có trời làm chứng, thì dù có trải qua bao nhiêu thăng trầm, dù sao có dời, vật có đổi thì ta cũng phải tôn trọng lời nguyền tử sinh của ta. Người kia đã có bao giờ có ý phụ tình ấy đâu mà mình lại định xẻ gánh ân tình ra làm đôi như thế?
Kiều bảo:
– Cái hạnh phúc của lứa đôi gia thất, ai mà không mơ ước? Nhưng em thiết nghĩ là trong đạo vợ chồng thì cái quý nhất là hoa còn phong nhị, và trăng còn tròn gương. Chữ trinh đáng giá ngàn vàng, có cái ấy thì mới không thẹn với chàng dưới đuốc hoa đêm hợp cẩn. Từ khi gặp tai nạn cho đến bây giờ, em đã trải qua bao nhiêu gió táp, mưa sa, ong qua bướm lại, trăng nào mà còn không khuyết, hoa nào mà còn không tàn? Giá trị của một kẻ má hồng bây giờ đâu nữa mà còn tính chuyện lo toan? Càng nhìn lại, mình càng thấy hổ thẹn. Sao lại dám đem cái thân bụi bặm này để đặt vào cái địa vị của một người chính chuyên? Tình anh có thể còn nặng, nhưng nếu em chấp nhận thì khi nhìn vào hoa đèn đêm tân hôn, em há không thấy hổ thẹn cho mình sao? Từ giờ trở đi em phải khép cửa phòng thu, tuy không mặc áo tu nhưng cũng phải sống như người tu mới đúng điều em mong ước. Nếu anh có nghĩ đến tình cũ, thì xin anh đem tình chăn gối đổi thành tình bạn bè. Nói làm chi đến việc kết tóc xe tơ bây giờ nữa? Nghe thì buồn cả ruột, mà lại thấy dơ cả cuộc đời mình!
Kim nói:
– Em khéo nói lắm. Nhưng trong lẽ phải thì người nào cũng có lý của người ấy. Xưa nay, trong cái đạo làm người phụ nữ, người ta cũng thấy có nhiều cách để thực tập chữ trinh. Xã hội có khi bình yên, có khi tai biến, và có những trường hợp người ta phải biết cư xử linh động, khi thì kinh nhưng lúc lại phải quyền. Trong trường hợp của em, em đã biết lấy cái hiếu làm cái trinh, thì bụi nào có thể làm vẩn đục thân hình em cho được? Trời đã để cho chúng ta có được ngày hôm nay, ngoài đầu ngõ sương đã tan, giữa lưng trời mây đã vén thì tuy hoa tàn nó lại còn tươi thắm thêm và trăng tàn mà nó còn sáng hơn mười lần những đêm rằm cũ! Còn điều gì để cho em nghi ngờ nữa đâu, sự thật là vậy, em đừng hành xử như chàng Tiêu một cách quá hờ hững.
Nghe Kim nói hết mọi điều, và cha mẹ cũng một mực theo về lý luận của chàng nên Kiều phải chấp nhận. Nàng cúi đầu thở than một mình. Không lẽ nàng cứ cãi lại lời cha mẹ mãi? Trong nhà mở tiệc đoàn viên, thắp đuốc sáng, giăng màn hồng cho hai người làm lễ giao bái. Lễ nghi đã đủ, hai người xứng đôi, vào giờ phút động phòng, chén rượu hợp cẩn mời nhau, ngậm ngùi tình xưa mà buâng khuâng duyên mới. Từ khi sen còn là ngó, đào còn là tơ, mười lăm năm đã đi qua, bây giờ đây hai người mới được chính thức để được ngồi bên nhau trở lại. Cuộc tình duyên ấy, những buồn đau xa cách và những hạnh phúc gặp gỡ hôm nay, bao nhiêu chuyện vui buồn được nhắc lại.
Đêm đã khuya, trăng đã cao, bên bức gấm thêu rũ xuống, dưới ánh đèn tỏ rạng, Kim Trọng nhìn Kiều thấy nàng càng thêm phần xuân sắc. Bây giờ đây, người tình lại được gặp người tình. Hoa là hoa xưa, ong là ong cũ, mối tình nay đã trở lại mười phần trọn vẹn.
Gạn đục khơi trong
Kiều bảo Kim:
– Em biết thân phận của em và thấy rõ cái hình hài này không còn giá trị gì nữa cả. Vì nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ cho nên em mới chiều lòng một chút để làm cái lễ cưới hình thức này. Riêng trong lòng em rất lấy làm hổ thẹn. Nếu chỉ làm ra vẻ âu yếm bên ngoài thì tuy với mặt dạn mày dày em còn có thể nhìn mặt người khác được chứ nếu làm theo thói tục vét hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa, giở ra cái trò chăn gối nhơ nhuốc ra như kẻ khác thì đối với em đó là chuyện nhục nhã, em không thể nào chấp nhận. Yêu nhau mà làm nhục nhau như thế thì lại còn bằng mười phụ nhau. Nếu nói đến chuyện con cái nối dõi tông đường thì đã có Thúy Vân đó, tại sao phải cần tới em đây nữa? Chữ trinh của em chỉ còn lại một chút ở nơi cách hành xử này, xin anh đừng bắt em dày xéo lên để cho nó tan vỡ, mà hãy giúp em cầm lấy nó cho vững. Đứng về phương diện tình cảm, thì giữa chúng ta còn có bao nhiêu là ân nghĩa, vậy thì có thú vị gì mà cứ vầy một cánh hoa tàn để chơi, hả anh?
Kim Trọng đáp:
– Ngày xưa sau khi nói lời thề thốt gắn bó, chúng ta đã rủi ro để lạc mất nhau như chim trời cá nước. Tâm sự của anh là xót thương cho số phận lưu lạc của em qua bao nhiêu ngày tháng. Thề thốt nặng nề bao nhiêu thì anh lại cảm thấy đau đớn vì sự mất mát bấy nhiêu. Chúng ta đã thề vào sinh ra tử có nhau thì được gặp nhau trở lại sau những ngày lưu lạc là điều trọng yếu nhất. Đó đích thực là tâm tình của anh. Nhưng bởi vì anh nghĩ tuổi em còn trẻ, tơ liễu còn xanh, chắc là em cũng chưa vượt thoát cái vòng ái ân cûa hình hài cho nên anh mới đề nghị như thế. Nhưng bây giờ biết được lòng em như một tấm gương trong chẳng dính một chút bụi trần, thì những lời em nói đã làm cho anh kính phục em thêm lên cả muôn ngàn lần. Lâu nay đi mò kim dưới đáy biển là vì tình vàng đá chứ không phải là vì chuyện trăng hoa đâu em. Giờ đây hai bên được gặp lại, muôn dặm trở nên một nhà, thì đâu nhất thiết phải cần đến việc chăn gối mới gọi được là mối duyên cầm sắt?
Nghe Kim nói như thế, Kiều đứng dậy sửa áo, cài trâm và lạy xuống trước Kim Trọng để đền tạ cái ơn cao thâm ngàn trùng ấy:
– Tấm thân tàn này của em mà gạn đục khơi trong được trở lại chính là nhờ anh. Anh thật không giống chút nào với những kẻ tầm thường trong thiên hạ. Mấy lời tâm huyết ruột rà của anh nói ra chứng tỏ anh là người hiểu em rất sâu sắc. Bạn tương tri mà thấy và hiểu được sâu sắc như thế mới thật là bạn tương tri. Từ đây về sau em sẽ được anh chở che đùm bọc hết lòng và danh tiết trăm năm của em cũng sẽ được bảo tồn suốt đời vì cái đêm tân hôn lịch sử này đây anh!
Nói xong, hai người cầm tay nhau. Họ yêu kính nhau vì đức hạnh, thân thiết nhau vì mối tình. Hai người nối thêm nến trên giá, cho hương thêm vào bình, và rót mời nhau uống thêm những chén quỳnh tương. Trong khi mối tình xưa lai láng sống dậy, Kim lại có dịp hỏi Kiều về bản đàn năm củ và xin Kiều đàn lại cho mình nghe. Kiều nói:
– Chính vì mấy đường tơ đứt ruột ấy mà em đã đi lầm đường lạc nẻo cho đến bây giờ. Ăn năn thì sự đã muộn. Nhưng không sao, nể lòng người cũ, em sẽ đàn cho anh nghe một lần cuối.
Cuốn dây từ ấy về sau cũng chừa
Phím đàn dìu dặt trong tay Kiều. Trong khi khói trầm tỏa bay cao thấp thì âm thanh huyền diệu của bản đàn cũng vang vọng gần xa. Khúc đàn nào mà đầm ấm như thế? Đó là Hồ Điệp, hay là Trang Sinh? Khúc đàn nào mà êm ái như tình xuân như thế? Đó là tiếng gọi của hồn vua Thục hay của chim Đỗ Quyên? Những âm thanh trong sáng như hạt châu nhỏ vào biển trăng, những âm thanh ấm áp như những hạt ngọc Lam Điền mới đông cứng lại. Nghe suốt một bản nhạc có đủ năm cung bậc, Kim thấy không có âm nào là không xinh đẹp, chẳng có âm nào mang tính não nùng. Chàng hỏi:
– Bản nhạc này ai sáng tác? Đây là bản nhạc ngày xưa hay là một bản nhạc mới? Nếu cũng là một bản nhạc thì tại sao ngày xưa nó buồn bã như thế mà ngày nay nó lại vui tươi như thế này? Có phải là khổ hay vui đều do lòng của ta, hay là vì khi cái vận rủi đã hết thì cái vận may lại tới?
Kiều đáp:
– Ngày xưa cũng chỉ vì mê đắm cái loại nhạc đứt ruột ấy mà em đã khổ đau từ ấy đến giờ. Loại văn nghệ đoạn trường này thật là tai hại. Hôm nay vì anh mà em đã đàn lại khúc ấy. Từ đây trở đi, em quyết tạ từ thứ âm nhạc buồn khổ này.
Hai người chuyện trò tâm sự với nhau chưa xong thì gà đã gáy sáng và trời vừa rạng đông. Chuyện gì xảy ra giữa hai người Kim đem kể lại rõ ràng cho tất cả mọi người trong gia đình đều biết. Ai cũng lấy làm lạ lùng. Ai cũng khen Kiều là người có chí khí thanh cao, không giống với bất cứ một kẻ tầm thường nào khác, sớm thì mận tối thì đào. Tình yêu và tình bạn đi đôi với nhau một cách tuyệt hảo. Tuy không chung chăn chung gối nhưng hai người vẫn xướng họa và hòa tấu cùng nhau. Khi thì chén rượu, lúc thì cuộc cờ, khi thì cùng xem hoa nở, lúc thì cùng chờ trăng lên. Lời nguyền ba sinh đã được thực hiện hoàn toàn, vì tình yêu đôi lứa đã biến thành tình yêu bè bạn.
Mây bay hạc lánh
Họ vẫn nhớ lời tâm nguyện là xây một ngôi chùa để đi rước ni sư Giác Duyên về trụ trì và hướng dẫn tu học cho cả nhà, nên gia đình Kiều đã cho người thân tín đi rước ni sư. Nhưng khi đến chốn thảo am, họ thấy cửa am đã đóng, then cửa đã cài, rêu rong đã trùm lên kẽ ngạch và cỏ đã mọc lên cả trên mái nhà. Giác Duyên đã đi hái thuốc ở một phương trời xa nào đó, như đám mây bay, như con hạc lánh, làm sao để tìm ra tung tích ni sư bây giờ? Nhưng vì tình nghĩa sâu đậm với ni sư cho nên gia đình Kiều sớm tối nào cũng lên trên am để đốt đèn và thắp hương.
Gia đình hưởng đầy đủ phúc và lộc. Kim và Vương cứ từ từ được thăng quan tiến chức và hạnh phúc kéo dài lâu bền. Thúy Vân đảm đang hết trách nhiệm thừa kế. Nàng sinh ra một đàn con cháu khá đông đảo, từ một gốc cù mộc nở ra bao nhiêu hoa quế hoa hòe. Nếp phong lưu và phú quý của gia đình họ ai mà sánh kịp, và họ như một thửa vườn đầy xuân sắc để lại tiếng thơm cho muôn đời.
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Mới hay muôn sự đều tại ông trời. Trời đã bắt ta làm người, cho ta thân thể này thì khi bắt ta phải chịu cảnh gió bụi ta cũng phải chấp nhận cảnh gió bụi. Chỉ khi nào trời cho ta hưởng cảnh thảnh thơi thì ta mới được hưởng cảnh thảnh thơi. Trời đâu có thiên vị ai đâu. Tài và mệnh trong hai cái mình chỉ chọn được một, làm sao mà có một lần đầy đủ cả hai? Có tài thì đừng hợm hĩnh, cậy thế cái tài của mình, vì chữ tài cùng một vần với chữ tai. Đã mang lấy nghiệp dữ vào thân thì đừng có trách là ông trời không có mắt. Thiện căn nằm trong lòng ta: tâm ta hiền thiện thì còn bằng mười lần hơn là ta có tài. Tôi đã chắp nhặt những lời thơ quê mùa này viết thành ra một câu chuyện khá dông dài, mong rằng tác phẩm này sẽ đem lại niềm vui cho quý vị độc giả trong một vài giờ đồng hồ, trong thời gian thưởng thức.
Có một truyện cổ tích Ấn Độ làm cho chúng ta phải suy nghĩ nhiều. Đại khái truyện đó như sau :
Một người nọ một hôm gặp một con rắn lớn vô cùng muốn tấn công mình. Trước nguy cơ đó, do bản năng tự vệ, anh ta chiến đấu với con quái vật, nhưng không thắng nổi nó, đâm đầu chạy. Con rắn đuổi kịp, anh ta phải quay lại chiến đấu với nó. Rồi lại chạy. Cứ đánh rồi chạy, chạy rồi đánh, như vậy mấy lần, không được nghỉ một phút, phải dốc hết toàn lực mà chẳng làm được gì khác nữa.
Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của phần đầu đó trước khi đi qua phần nhì của câu truyện. Con rắn đó tượng trưng cho số phận. Ai cũng có số phận. Tiếng này chỉ một tổng hợp các khả năng thiên phú, tài đức luyện được, các ảnh hưởng của di truyền, đất đai, xã hội … các bổn phận, thị dục, ưu tư, đau khổ, hoan lạc, bệnh tật, liên hệ gia đình, xã hội, hy vọng, thất vọng và các năng lực bí mật tốt hoặc xấu tác động tới con người. Ta phải nhận cái số phận đó, không sao tránh nó được. Nhiều người thấy nó đè nặng trên vai quá, ghét nó, tởm nó, muốn trút bỏ nó đi bằng cách này hay cách khác. Một cách thông thường nhất là trốn nó, chẳng hạn trốn vào bệnh tật, tin rằng như vậy là trút được trách nhiệm : “Tôi bệnh tật rề rề, suy yếu quá ! Tôi xin rút ra khỏi cuộc chiến đấu, xin bà con thương tôi với, săn sóc cho tôi, tội nghiệp !”. Truyện cổ tích trên kia cho ta thấy rằng trốn như vậy vô ích : Con rắn sẽ đuổi kịp ta, rồi ta lại lâm nguy, lại phải chiến đấu như lúc đầu mà vẫn không sao thắng nổi nó được.
Hiển nhiên là thái độ chạy trốn đó hỏng. Vậy thì phải làm sao bây giờ ? Truyện cổ tích cho ta biết tiếp :
Một hôm một nhà hiền triết thấy anh ta loay hoay mà không thoát được cảnh đó, bảo : “Đừng chạy trốn nữa mà cũng đừng chiến đấu nữa”. Anh ta đáp : “Nó sẽ nuốt tôi mất còn gì !”. Nhà hiền triết nói : “Nghe lời tôi khuyên dạy sẽ được yên ổn. Lại gần con rắn, đi, nằm dài bên cạnh nó, uốn mình theo những khúc cong của nó thì sẽ thoát, nó sẽ không tấn công anh nữa đâu”. Anh ta theo lời khuyên và quả nhiên được yên ổn.
Như vậy là nghĩa làm sao ? Phải bỏ ý làm chủ số phận của mình ư ? Cứ khoanh tay mà an phận chăng ? Không phải vậy. “Nằm dài bên cạnh con rắn” có nghĩa là : Hòa giải với nó, tin nó, coi nó như bạn đồng hành, chấp nhận nó như một sự tất yếu, nhưng là một sự tất yếu hợp ý ta, hoàn toàn do ta định. Tóm lại “nằm dài bên cạnh con rắn” tức là chấp nhận số phận. Vì ta chỉ có hai thái độ đối với “số phận” : Chấp nhận hay phủ nhận. Phủ nhận là thái độ hão huyền, vì không phải hễ từ chối “số phận” của mình là sẽ nhận được một số phận khác. Người nào ngày ngày đều than thân trách phận thì sẽ thấy “số phận” không khác con rắn nó muốn nuốt mình. Nhưng người nào bình tĩnh chấp nhận “số phận” không phải chấp nhận một lần mà đủ, phải chấp nhận mỗi ngày, thì sẽ thấy rằng “số phận” có khổ sở tới mực nào (bị một chứng nan y hay lỡ vướng vào một cuộc hôn nhân tai hại) cũng sẽ lần lần bớt khắt khe đi. Ta tự thích ứng với “số phận” thì “số phận” sẽ tự thích ứng với ta.
Người ta bảo : Chính tính tình, thái độ của ta quyết định “số phận” cho ta. Tại bản ngã của ta như vậy cho nên ngoại giới mới tác động tới ta như vậy. Bản ngã của ta tìm gọi cái “số phận” của ta, cái “số phận” hoàn toàn thích hợp với ta – điều đó có khi phải đợi đến lúc ta gần từ biệt cõi đời, ôn lại con đường đời đã qua rồi mới nhận định ra được. Một truyện cổ tích nọ kể rằng một người xin đổi cái “thập tự giá” (tức cái cảnh khổ, cái số phận) người đó phải vác. Người ta dắt anh ta vô một phòng dựng đầy những thập tự giá lớn nhỏ, nặng nhẹ đủ cỡ. Anh ta lựa một lát rồi la lên : “Cho tôi cây này”, thì chính là cây anh ta đã chê mà đòi đổi.
Trong số bạn thân của tôi có một cặp vợ chồng nọ hoàn toàn sung sướng cho tới khi sinh đứa con thứ ba. Em gái này trí tuệ trì độn, bị chứng giật gân, động kinh, nguyên do tại óc, nói không được mà đi cũng không được. Thực là não lòng cho cha mẹ. Mới đầu hai ông bà còn cố bám lấy cái hy vọng trị được bệnh cho con, chẳng hết hẳn thì cũng đỡ được ít nhiều. Sau ba năm, hy vọng tiêu tan và họ như ngã quỵ xuống, chịu không nổi, sống cô độc, không giao thiệp với ai hết.
Một năm sau nữa, tôi nhận được một bức thư : “Chúng tôi mới trải qua một kinh nghiệm kỳ thú là sao : Cái họa của chúng tôi đã thành cái phước chị ạ. Phải gặp cái cảnh bi thảm đó, vợ chồng tôi mới thực là đoàn kết chặt chẽ với nhau; đứa cháu tội nghiệp đã thành trung tâm của cuộc đời chúng tôi, bảo vật của chúng tôi, hạnh phúc của chúng tôi. Chính vợ chồng tôi cũng khó mà hiểu nổi rằng cái họa đó lại đồng thời là cái phước cho chúng tôi … Chúng tôi nói vậy không phải tự an ủi hoặc lừa dối người khác về cảnh bi thảm của chúng tôi đâu, không, chúng tôi quả là sung sướng”.
Hạnh phúc của cặp vợ chồng đó ở đâu vậy ? Chính ở chỗ họ đã có thể vui vẻ chấp nhận chiếc thập tự giá nặng nề của họ.
Tôi có thể kể cho bạn nghe một bi kịch nữa mà chính tôi đã chứng kiến trong hai năm nay. Kép hát nổi danh Ernst Ginsberg hồi sáu chục tuổi bị một chứng tê liệt kỳ dị, mới đầu bệnh tăng lên chậm chậm rồi mỗi ngày mỗi mau. Lần đầu tiên ông kể bệnh cho tôi nghe (lúc đó bệnh mới hơi hiện ra, ông còn có hy vọng trị hết được), ông có vẻ đau khổ lắm. Vài tháng sau, khi ông biết rằng tuyệt vọng rồi, và từ nay bắt đầu một quãng đời đầy những đau khổ về thể chất, thì lần lần niềm vui của ông tăng lên. Và sau cùng khi ông đau đớn ghê gớm, không nói được nữa, thì ông cảm được một niềm hân hoan bí mật. Tất cả những người lại gần ông hồi đó đều nhận thấy vậy. Người nào từ biệt ông ra về, lòng cũng hoang mang nhưng phấn khởi lạ lùng. Bí quyết hân hoan của ông ở đâu ? Ở chỗ hoàn toàn chấp nhận số phận vốn ghê gớm đó. Bây giờ ông đã từ trần, nhưng đã để lại cho chúng ta bài học rằng không có chiếc thập tự giá nào mà ta không vác nổi với điều kiện (mà điều kiện này tất yếu) là phải nhận nó như một vật sở hữu của ta, hoàn toàn thích hợp với ta, tới nỗi nó với ta chỉ là một.
Vậy không phải chỉ là một thái độ lợi dụng nó triệt để hoặc thái độ “mỉa cười nhận nó”, hoặc chán nản an phận. Cũng hơn cả thái độ hùng tâm nhận cái gì không tránh được. Vì mấy thái độ mới kể chỉ là tự nhận mình phải thua “số phận”. Mà nhà hiền triết Ấn Độ trong truyện con rắn đâu có ý khuyên ta như vậy, ông muốn dạy ta rằng : Phải hiểu ý nghĩa của “số phận” của mình, mà muốn hiểu nó thì phải chấp nhận nó. Khi chấp nhận nó rồi, thì nó với mình là một, mà mình đã đồng hóa với nó như vậy thì mình sẽ làm chủ nó chứ không bị nó chi phối nữa.
Thức uống theo thực dưỡng có nhiều thứ khác nhau, từ nước trong đơn sơ đến các loại trà phức tạp như trà Mu. Đây là những thức uống không pha tẩm hóa chất tổng hợp nhân tạo hoặc chế biến trái tự nhiên, và mỗi thứ có những đặc tính riêng mà ta nên biết để có thể chọn dùng cho phù hợp nhu cầu cơ thể, thời tiết và môi trường sống.
Nếu dùng thường xuyên hàng ngày, ngoài nước trong, còn có trà gạo lứt rang và trà lá già (đặc biệt trà ba năm) là thức uống thích hợp cho mọi người. Thỉnh thoảng có thể dùng thay đổi với các loại trà đậu hoặc trà cây lá cổ truyền. Tuy nhiên, đối với trẻ con dưới 1 tuổi, cho uống nước sôi để nguội là tốt nhất, không nên cho dùng trực tiếp trà cây lá. Chỉ khi trẻ bị bệnh, nếu cần thiết, bà mẹ có thể uống những loại trà đặc trị rồi cho con bú.
Khi làm trà khô, nếu nguyên liệu có dạng lá thì nên phơi trong bóng râm (Âm can), tránh ánh nắng mạnh hủy hoại các chất bổ có trong trà. Nên dùng trả đất hoặc chảo gang để sao (rang) trà, và dùng siêu đất (ấm đất) để nấu hoặc bình đất để hãm trà ; vì dụng cụ bằng kim loại sẽ làm giảm hoặc khử hết hiệu lực của trà. Khi cần, bóp vụn trà bỏ vào bình, chế nước sôi vào, đậy nấp kín để hãm ; hoặc nấu trà với nước lã để sôi riu riu độ 15 – 20 phút cho ra hết chất, rồi chứa vào bình thủy để uống dần. Nên nấu hoặc hãm trà vừa đủ dùng trong ngày, qua hôm sau trà thường bị thiu chua không tốt.
Ngoài trà, bạn nên có sẵn hai loại bột cà phê thực dưỡng (cà phê Ohsawa) và sữa thảo mộc kokkoh để làm thức “uống liền” ngon bổ đãi khách hoặc dùng đỡ đói vào bữa sáng (điểm tâm), bữa lỡ (nửa buổi).
Nước dùng làm thức uống (và nấu ăn) nên lấy từ các nguồn thiên nhiên như mưa, suối, mạch ngầm, giếng, sông giữa dòng, đương nhiên phải tìm nơi thoáng sạch, càng xa bãi rác, chợ búa, khu công nghiệp ..v.v.. càng tốt. Nhưng trong thời buổi môi trường ô nhiễm tràn lan như hiện nay, nên lọc kỹ nước lã trước khi dùng. Cách lọc đơn giản nhất là cho nước thấm qua một lớp cát, một lớp than củi và một lớp sỏi chứa trong một hủ (vại) sành có lỗ thoát ở dưới đáy để nước sạch chảy xuống một chum sành. Lọc độ một tuần hoặc nửa tháng thì thay than và rửa sạch cát sỏi cùng hủ lọc để loại bỏ các chất bẩn bám tụ. Nếu dùng nước máy, nên để vòi nước chảy ri rỉ qua đêm, hoặc mở nước vào cái xô hoặc chum, thùng để thoáng nhiều giờ cho những hóa chất khử bẩn hòa tan trong nước bay hơi bớt ; đem lọc càng tốt.
Dù sao, để bảo đảm an toàn vệ sinh, nên nấu chín nước uống và dùng nóng (ấm bằng thân nhiệt). Tránh dùng nước đá chừng nào tốt chừng đó. Thỉnh thoảng lúc trời nóng bức hoặc người bị nhiệt, bạn có thể dùng một ít nước trái cây vắt, ép hoặc xay, nhưng nêm chút muối tốt hơn pha đường. Cũng có thể thay một phần nước uống bằng canh, xúp hoặc nước luộc rau củ.
Thức uống :
Trà gạo lứt
Trà ba năm
Trà đậu đỏ
Trà đậu đen
Trà đậu ván
Trà vối
Trà tim sen
Trà củ sen
Trà râu bắp
Trà vỏ ấu
Trà ngải cứu
Trà bồ công anh
Trà tương
Trà tương mai
Trà trinh nữ
Trà rau má
Trà Mu
Trà ô mai
Trà sắn dây
Nước sắn mai
Cà phê thực dưỡng
Cà phê bồ công anh, cà phê ngưu bàng
Sữa thảo mộc kokkoh
Nguồn:
● Sách : Nghệ thuật nấu ăn vui khỏe theo phương pháp thực dưỡng Ohsawa Macrobiotics
● Tác giả : Lima Ohsawa – Diệu Hạnh
● Nhà xuất bản : Thời Đại